22/11/2024 15:45Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/12/2019 01:35
Chúng ta lại bàn đến vấn đề xưa như quả đất? Phải! Nó không mới mẻ gì đối với loài người, nhưng nó cũng chẳng bao giờ cũ, vì loài người càng tân tiến càng phải đi tìm nó, và luôn luôn coi nó như một thần tượng trong lẽ sống.
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,Mãnh lực nào đã chi phối tâm tư họ, nếu không phải là mãnh lực của ái tình? Sức mạnh yêu đương đã bắt nguồn từ con tim họ chảy bàng bạc vào thửa ruộng nương dâu, vào luống cày rãnh nước, tràn ngập những đêm trăng, vắt vẻo trên cành cây, tuôn theo dòng suối… và cũng có bóng dáng của ái tình, khiến họ cảm thấy cô đơn, nếu giờ phút nào đó không tìm thấy nó. Cho nên:
Đêm quên giấc ngủ ngày mơ tiếng cười.
Qua cầu giở nón nhìn cầu,Rõ ràng tình yêu của cô thôn nữ gắn liền với nhịp cầu và khi tình yêu ấy mất thì lòng cô tái tê.
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.
Ước gì anh hoá ra hoa,Bàn tay của giai nhân muôn thuở vẫn là thần tượng yêu đương! Người bình dân sống trong luỹ tre xanh, giữa hoa ngàn cỏ nội tự thế giới ngàn xưa, nhưng ai dám bảo rằng họ không thưởng thức nổi những thẩm mỹ mà ngày nay chúng ta đang ca ngợi.
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn.
Ước gì anh hoá ra chăn,
Để cho em đắp, em lăn, em nằm.
Ước gì anh hoá ra gương,
Để cho em cứ ngày thường em soi.
Ước gì anh hoá ra cơi,
Để cho em dựng cau tươi, trầu vàng.
Đêm nằm tàu chuối có đôi,Chỉ cần một tàu chuối lót mình để ấp ủ tình yêu là thoả nguyện rồi, không cần chiếu bông giường lèo mà phải sống trong cô quạnh. Như vậy, tình cảm yêu đương quả là một năng lực tuyệt đối ngự trị cuộc sống tinh thần của họ.
Hơn năm chiếu miến lẻ loi một mình.
Đêm qua đốt đỉnh hương trầm,Hỡi những thi nhân của thế hệ đương thời! Các người tự cho mình là bậc trí thức, đủ khả năng diễn đạt mọi tình cảm, vậy đối với người bình dân thời xưa, các người đã làm gì hơn họ trong lãnh vực gợi tình?
Khói lên nghi ngút âm thầm lòng ai?
Núi cao chi lắm núi ơi!Trong văn chương bác học, dù ngôn ngữ có tinh vi đến đâu cùng khó diễn đạt những ý tứ ấy.
Núi che mặt trời không thấy người thương.
Con đò với gốc cây đa,Nhưng trong lúc cách biệt nhớ nhung, cũng với hình bóng ấy, họ gởi gắm tình yêu:
Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò.
Trăm năm dù lỗi hẹn hò,Tình yêu như mở rộng trước mắt họ, trong lòng họ, và lúc nào họ cũng tiếp nhận tình yêu. Chẳng những chỉ mở rộng cõi lòng đã đón nhận, mà họ hy sinh thân xác để đi tìm nó:
Cây đa bến cũ, con đò năm xưa.
Đói lòng ăn nửa trái sim,Người thương ở đây không có nghĩa là một hình hài cố định, không phải là một ý-trung-nhân đã chọn sẵn! Nó chỉ là mãnh lực của ái tình! Một khát vọng của cảm giác con người! Nó có thể là một luồng gió thoảng, một cành hoa nhuộm nắng bên đường, một cánh chim lạc loài in trên đáy nước... hoặc tất cả những gì gợi lên ý nghĩa của lẽ sống.
Uống lưng bát nước đi tìm người thương.
Chuồn chuồn mắc phải nhện vương,Tình thương sở dĩ có sự dễ dãi như vậy chỉ vì bản chất tình cảm của họ quá dồi dào. Nhưng trong yêu đương họ vẫn thấy niềm đau khổ:
Đã trót quấn quít thì thương nhau cùng.
Chim chuyền bụi ớt líu lo,Dù là người của nghìn xưa, tình ái vẫn là điệu đàn muôn thuở. Họ vẫn băn khoăn, khắc khoải, nhớ nhung, trông chờ... và khổ đau đến nỗi võ vàng thân xác. Họ vẫn nếm đủ mùi vị của ý nghĩa tình yêu. Tuy nhiên, tình cảm là một sợi dây luôn luôn trói buộc con người vào khát vọng.
Lòng thương em bậu ốm o gầy mòn.
Yêu nhau tâm trí hao mòn,Hoặc có lúc họ cũng cảm thấy tình yêu là cái gì chứa đầy đắng cay, chua chát. Tuy nhiên, họ không hằn học, ruồng rẫy thản nhiên nuôi dưỡng yêu đương trong nguồn thú vị ấy:
Yêu nhau đến thác vẫn còn yêu nhau.
Tay bưng đĩa muối chấm gừng,Chẳng những đem tinh thần chịu đựng để vui hưởng thú yêu đương mà họ còn vận dụng lòng kiên nhẫn để xây đắp cho tình yêu được đẹp đẽ nữa:
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau!
Một mai ai chớ bỏ ai,Với nguồn tình cảm bao la ấy chảy vào non sông đất Việt, tràn ngập cả ruộng đồng, rưới khắp cỏ cây, trong ca dao nước ta bàng bạc những câu hát gợi tình, những mảnh tâm hồn luyến ái giữa gái trai rơi rớt từ ngàn xưa mà ngày nay chúng ta không tài nào thu thập hết cũng không là chuyện lạ.
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim!
Cô kia cắt cỏ một mình,Những câu hát trêu tình dí dỏm như vậy không có nghĩa là khinh miệt cô gái, vì cô gái kia cũng có quyền nói lên ý nghĩ của mình mà không sợ ai ngăn cấm. Ví dụ:
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi.
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.
Nuôi lợn thì phải vớt bèo,Do đó, bản năng con người được tự do nảy nở, vì tình cảm con người được tự do trao đổi qua câu hò tiếng hát mà chúng ta đã nghe vang lên bên luỹ tre xanh, bên thềm giếng nước, bên cạnh bờ ao, dưới ánh trăng suông.
Muốn lấy vợ phải nộp cheo cho làng.
Ra đi mẹ có dặn rằng:Người nông dân Việt Nam thuở xưa đối với miếng trầu, miếng thuốc thật quan trọng! “Miếng trầu là đầu câu chuyện”! Những lúc họ rảnh tay nghỉ ngơi nơi bờ ruộng, ven sông, chính là lúc họ được dịp tìm hiểu tình cảm nhau. Họ trao cho nhau một miếng trầu, mời nhau một miếng thuốc, đó là cử chỉ xã giao, biểu lộ tình cảm giữa gái trai. Do đó, miếng trầu dần dần trở thành biểu tượng cho tình duyên.
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Sáng ngày tôi đi hái dâu,Tuy từ chối, nhưng sự luyến ái giữa gái trai không phải đơn thuần. Khi bóng dáng một cô bé đã lọt vào vòng tình cảm rồi thì dẫu là một anh chàng nông phu hiền lành chất phác đến đâu cũng không thể vuốt bụng làm ngơ.
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng: “Cô ấy vội vàng đi đâu?”
Thưa rằng: “Tôi đi hái dâu.”
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng: “Bác mẹ tôi răn:
Làm thân con gái chớ ăn trầu người!“
Tiện đây đưa một miếng trầu,Nếu trước mặt không phải là một chàng trai quá xấu xí, làm sao người con gái kia có thể bóp chết tình cảm của lòng mình? Khi đã cầm đến miếng trầu thì:
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng!
Miếng trầu là nghĩa,Từ lúc trao một miếng trầu làm quen, đến lúc thổ lộ tình cảm, của lòng mình chẳng còn bao xa nữa:
Thuốc xỉa là duyên.
Miếng trầu ăn nặng bằng chì,Và tình cảm bắt dầu từ miếng trầu đi vào tâm tư, cho đến một ngày nào đó, lòng cô gái bỗng dưng cảm thấy:
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn.
Từ ngày ăn phải, miếng trầu,Tuy nhiên, người con gái cũng chẳng vừa gì, chính lòng họ cũng chứa dựng một nguồn ân bể ái. Vì nhiều lúc họ cũng dùng những miếng trầu trao duyên gởi vào những chàng trai làm cho những chàng trai kia phải điêu đứng tầm hồn vì họ:
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.
Biết rằng thuốc dấu hay bùa yêu,
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa!
Làm cho quên mẹ, quên cha,
Làm cho quên cửa quên nhà,
Làm cho quên cả đường ra lối vào,
Làm cho quên cá dưới ao,
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời!
Trầu này têm tối hôm qua,Làm thế nào ngăn cản được nhưng con tim đang rạo rực khi tình xuân chớm nở! Chúng ta đừng tưởng trong khung trời bao la bát ngát của đồng quê, mãnh lực ái tình không thể ngự trị! Chúng ta cũng đừng tưởng vẻ mặt ngây ngô của cô thôn nữ chẳng bao giờ biết thất thểu vì tình. Cái ngây ngô chất phác biểu lộ một cuộc sống không kiêu sa đài các mà trên phương diện ái tình cô gái đồng ruộng cũng như cô gái phòng khuê, đều có một tâm trạng giống nhau. Họ vẫn thấp thỏm trước tình yêu, mơ màng những phút giây ân ái.
Giấu cha, giấu mẹ đem ra mời chàng.
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?
Hay là chê khó, chê khăn,
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu!
Buồn tình cha chả buồn tình,Khát vọng ái tình là bản năng thiên nhiên thì dù cô gái thời nào cũng thế. Có khác chăng chỉ là cái bề ngoài mà thôi. Cho nên, nếu ngày nay có những cô tiểu thư:
Không ai là bạn cho mình kiếm đôi.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,Thì ngày xưa cũng có những cô gái quê:
Tựa cửa nhìn ra nghĩ ngợi gì?
(Thi nhân hiện đại)
Gió đưa cây sậy nằm dài,Ai làm họ buồn? Không ai cả! Có thể là một bóng trăng mờ, một tiếng chó sủa, một đoá hoa tàn, một giọt sương rơi... mà chúng ta gồm vào hai tiếng “tình yêu”.
Ai làm thục nữ buồn hoài không vui?
Đêm qua trời sáng trăng rằm.Và, còn biết bao nhiêu cái buồn khác nữa vấn vương lòng cô thôn nữ trong lãnh vực yêu đương?
Anh đi qua cửa em nằm không yên.
Mê anh chẳng phải mê tiền,
Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng.
Thấy anh em những mơ màng,
Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng sánh đôi.
Thấy anh chưa kịp ngỏ lời,
Ai ngờ anh đã vội dời gót loan.
Thiếp tôi ngơ ngẩn canh tàn,
Chiêm bao như thấy có chàng ở bên.
Tỉnh ra lẳng lặng hiển nhiên,
Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày.
Ngỡ rằng duyên nợ đó đây,
Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào.
Hôm nay trời nhẹ lên cao,Thì chính cô thôn nữ thời xưa cũng đã tìm thấy nỗi buồn len lỏi vào lòng mình:
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn?
(Thi nhân hiện đại)
Ngày ngày ra đứng bờ sông,Hoặc:
Sông xa, xa tít cho lòng em đau.
Đêm qua ra đứng bờ ao,Còn đối với người nông phu thời xưa, ái tình có đem đến cho họ những nỗi buồn bâng quơ như các nàng thôn nữ chăng?
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chớ mối ai?
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
Trời sanh con mắt là gương,
Người ghét ngó ít, người thương ngó nhiều.
Ước gì anh lấy được nàng,Một anh nông phu sống với con trâu thửa ruộng, cặm cụi suốt ngày, thế mà cũng mơ ước mua gạch Bát Tràng xây hồ bán nguyệt cho vợ rửa chân! Dĩ nhiên đó là những ảo vọng! Những ảo vọng ấy phát xuất ở tâm tư một chàng trai muốn tôn thờ ái tình như một linh tượng, mà điển hình là người đàn bà.
Thì anh mua gạch Bát Tràng anh xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Người yêu ta để trên cơi,Mảnh trăng vàng sáng rực len lỏi bên song, giậu trúc lơ thơ lắc lư trước gió, đằng xa, nhà ai tiếng chày khua vọng lại suốt canh trường, một cặp gái trai đến độ xuân thì, khi đi biết nhau qua đôi lời ân ái thì làm sao có thể an lòng ngủ ngon giấc với những đêm trăng mơ mộng ấy? Ai đã sống với đồng quê, ai đã qua những đêm trăng nơi bờ ruộng hẳn không lấy làm lạ khi thấy tâm hồn những đôi trai gái mộc mạc kia rung lên những nguồn cảm giác lạ lùng:
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ.
Đêm qua ba bốn lần mơ,
Chiêm bao thời thấy, dậy rờ thời không!
Đêm khuya khêu ngọn đèn loan,Nguồn cảm giác trong nhớ nhung giữa trai gái dồi dào đến nỗi chúng ta ngày nay không thu nhặt hết. Nếu Nguyễn Du đã tả nỗi buồn của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích, Đoàn Thị Điểm cởi mở tâm tình của người chinh phụ mà được nhiều người chú ý, tại sao trong ca dao Việt Nam chúng ta, những tâm tư ấy đầy dẫy như một nguồn sống, chúng ta lại không tìm để thưởng thức:
Nhớ chàng quân tử thở than mấy lời.
Mong chàng chẳng thấy chàng ơi!
Thiếp tôi trằn trọc vội dời chân ra.
Nhác trông trăng đã xế tà,
Đêm hôm khuya khoắc, con gà đã gáy sang canh.
Mong anh mà chẳng thấy anh,
Thiếp tôi buồn bã khêu quanh ngọn đèn!
Có đêm ta đứng đàng tây,Sự luyến ái giữa gái trai đối với người bình dân quả đã bộc lộ trong trạng thái tự do của bản năng tình cảm. Tuy nhiên, nếu bảo tâm tư luyến ái của người bình dân thời xưa là nguồn gốc của tính chất lãng mạn thì đó là một sai lầm.
Trông lên lại thấy bóng mây tà tà!
Có đêm ra đứng vườn hoa,
Trông lên lại thấy sao tà xanh xanh,
Có đêm thơ thẩn một mình,
Ở đây thức đã năm canh rõ ràng!
Có đêm tạc đá ghi vàng,
Ngày nào em chẳng nhớ chàng, chàng ơi!
Thương chàng, thương lắm, chàng ơi!
Nhớ miệng chàng nói, nhớ lời chàng than.
Nhớ chàng như nhớ lạng vàng,
Khát khao vì nết mơ màng vì duyên.
Nhớ chàng như bút nhớ nghiên,
Như mực nhớ giấy, như thuyền nhớ sông.
Nhớ chàng như vợ nhớ chồng,
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây.
Đường dài ngựa chạy biệt tăm,Tuy bản năng thiên nhiên thúc giục đưa tình yêu họ đến chỗ đắm đuối, nhưng họ không vì thú vui vật chất mà không nói đến nghĩa nhân.
Người thương có nghĩa trăm năm cũng chờ.
Đôi ta đã trót lời thề,Sự chung thuỷ đối với tình yêu của người bình dân trở thành một qui luật tất yếu về nhân sinh. Cho nên trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn thấy họ xem trọng:
Con dao lá trúc đã kề tóc mai,
Dặn rằng: “Ai chớ quên ai!“
Chén tình là chén say sưaVì tình yêu gắn bó với nghĩa nhân, cho nên nhiều lúc họ dám xem nhẹ đời sống mình, xem nhẹ cả giàu sang để bảo vệ ý hướng của họ:
Nón tình em đội nắng mưa trên đầu.
Lược tình em chải trên đầu,
Gương tình soi mặt làu làu sáng trong.
Ngồi buồn nghĩ đến hình dong,
Con dao lá trúc cắt lòng đôi ta.
Duyên đôi ta thề nguyền từ trước.
Biết bao giờ ta được cùng nhau!
Tương tư mắc phải mối sầu,
Đây em cũng giữ lấy mầu đợi anh.
Hai tay cầm bốn Ông Tơ,Chính là muốn nói đến cái nghĩa nhân ấy, nói lên sự chung thuỷ của tình yêu!
Dù năm bảy mối, cũng chờ mối anh.
Thương nhau bất luận giàu nghèo,Họ vượt ra ngoài lễ giáo:
Dù cho lên ải, xuống đèo cũng cam.
Thương nhau cởi áo cho nhau.Tâm tư ấy, ai bảo là bản năng dục vọng? Không! Chính họ hy sinh để tìm cái nghĩa của chữ chung thuỷ trong tình yêu.
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay!
Anh ra về, em cũng muốn về theo,Hoặc:
Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm!
Anh về để áo lại đây.Hay:
Đêm khuya em đắp, gió tây lạnh lùng.
Ra về không lẽ về luôn,Thì cũng không phải đo bản năng dục vọng, mà chính là người con gái muốn thổ lộ lòng chung thuỷ của mình đối với tình nhân.
Để khăn áo lại, lệ tuôn em chùi.
Trách ai ăn giấy bỏ bìa,Họ đánh giá con người không chung thuỷ bằng những câu mỉa mai:
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.
Chàng ràng chi lắm bướm ơi!Từ chỗ mỉa mai, khinh bỉ, họ đi đến chỗ oán ghét. Họ oán ghét không phải vì ích kỷ, tranh giành một quyền lợi nào trong xã hội, mà họ oán ghét vì kẻ ấy thiếu lòng chung thuỷ.
Đậu đâu bướm đậu một nơi cho rồi!
Yêu nhau yêu cả đường đi,Nhưng tại sao người bình dân lại có cái ghét độc địa vậy?
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.
Yêu nhau xé lụa may quần,Nếu ngôn ngữ loài người “thương”, “ghét” là hai trạng thái tương phản hoàn toàn, thì chính ngôn ngữ ấy đã phản ảnh đầy đủ trong tâm tư người bình dân:
Ghét nhau kể nợ, kể nần nhau ra.
Thương thì quạt giấy cũng cho,Và, nếu trong lúc thương họ xem nhẹ giàu sang, danh lợi thì lúc ghét họ cũng chẳng màng đến tiền của, lợi danh:
Ghét thì quạt mo cùng đòi.
Yêu nhau trầu vỏ cũng say,Rõ ràng tình cảm của họ không bị ánh sáng vật chất làm méo mó, và đó cũng là đặc tính của người bình dân. Cái thương, cái ghét của họ là phản ảnh trung thành của bản chất con người trong ý sống.
Ghét nhau cau đậu đầy khay chẳng màng.
Tình thương quán cũng như nhà,Và chính họ cũng đã giải thích cho chúng ta thấy thế nào là có nghĩa nữa. Sự giải thích của họ hàm chứa trong những câu như:
Lều tranh có nghĩa hơn toà ngói sen.
Cầm vàng mà lội qua sông,Nhìn một cành hoa, họ không ca tụng cành hoa đẹp, mà họ ca tụng cái công của người trồng hoa. Một đoá hoa rơi, họ không mến tiếc đoá hoa ấy mà mến tiếc công lao kẻ đã săn sóc! Như vậy, chúng ta không thể bảo rằng người bình dân thời xưa không có một luyến ái quan?
Vàng rơi không tiếc, tiếc công anh cầm!
Dao vàng cắt ruột máu rơi,Con người sống để mà thương nhau, an ủi nhau. Đó là tình thân của con người đối với con người. Tình ái là sợi dây gắn bó giữa gái trai, nhưng nếu nó vượt ra ngoài tình thuỷ chung mà họ gọi là “nghĩa” thì cũng chẳng có gì tốt đẹp nữa.
Ruột chưa đau mấy bằng lời em than!
Tự do luyến ái, bình đẳng hôn nhân.
In từ trang: https://www.thivien.net/ » Khuyết danh Việt Nam» Ca dao về tình yêu, đôi lứa » Ca dao về sự luyến ái giữa gái trai