21/12/2024 20:09Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Vãn Đường
Đăng bởi bruce lee vào 06/05/2010 03:15
Nguyên tác
繞樹無依月正高,
鄴城新淚濺雲袍。
幾年始得逢秋閏,
兩度填河莫告勞。
Phiên âm
Nhiễu thụ vô y nguyệt chính cao[1],
Nghiệp Thành[2] tân lệ[3] tiễn vân bào.
Kỷ niên thuỷ đắc phùng thu nhuận,
Lưỡng độ trấn hà mạc cáo lao.Bản dịch của Lê Quang Trường
Quạ nhiễu cây ngàn, nguyệt vút cao
Nghiệp Thành lệ mới ướt vân bào
Bao năm mới được ngày thu nhuận
Chẳng ngại gian lao nối nhịp cầu
Bài này được tác giả làm vào năm Đại Trung thứ 6 (852). Năm này nhuận tháng 7 nên chim quạ hai lần bắc cầu sông Ngân. Sách Thông giám nhật lục chép: Năm Đại Trung thứ 6 nhuận tháng 7.
[1] Bài Đoản ca hành của Tào Tháo có câu: “Nguyệt minh tinh hy, Ô thước nam phi; Nhiễu thụ tam tạp, Hà chi khả y?” (Trăng sáng sao thưa, Chim quạ về nam, Lượn trên cây ba vòng, Cành nào đáng đỗ?“
[2] Tào Tháo lấy đất Nghiệp làm kinh độ nhà Nguỵ (xưa thành ở phía tây huyện Lâm Chương tỉnh Hà Bắc). Ở câu đầu tác giả dùng câu thơ của Tào Tháo, nên câu tiếp theo phải nói đến đất Nghiệp.
[3] Lệ mới. Ý nói đang tháng nhuận, quạ bắc cầu lần hai nên rơi lệ mới.