22/01/2025 20:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 07/06/2017 16:36
Nguyên tác
王侯將相總稱雄,
十八傳來位號同。
歳歷千餘支派遠,
二徵還有祖威風。
Phiên âm
Vương hầu tướng tướng tổng xưng Hùng,
Thập bát truyền lai vị hiệu đồng.
Tuế lịch thiên dư chi phái viễn,
Nhị Trưng hoàn hữu tổ uy phong.Dịch nghĩa
Vương hầu, quan văn, quan võ đều xưng hiệu là Hùng
Truyền nối qua mười tám đời đều lấy chung một hiệu vua
Kéo dài suốt hơn nghìn năm, chi phái dòng dõi thật lâu xa
Cho đến thời Hai Bà Trưng vẫn còn sự oai phong của tổ tiênBản dịch của Bùi Duy Tân
Vương hầu văn võ thảy xưng Hùng,
Mười tám đời vua miếu hiệu chung.
Nghìn năm chi phái lưu còn thịnh,
Hai Bà Trưng vẫn tỏ oai phong.
Theo Ngoại kỷ: Vua khuyết tên huý, là con của Lạc Long Quân, lên nối ngôi tự xưng là Hùng Vương, dựng nước lấy quốc hiệu là Văn Lang, đặt quan võ là Hùng tướng, quan văn là Hùng hầu, chế độ cha truyền cho con gọi là phụ đạo, truyền nối nhau được mười tám đời thì bị An Dương Vương thôn tính. Nay xét: từ thời Đường đến thời cuối đời nhà Chu trải qua thời gian rất dài mà nói là chỉ truyền nối qua mười tám đời vua, có lẽ thời trước vì chưa có quốc sử nên mới lưu truyền sai lầm như thế.