22/12/2024 13:12Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 17/09/2024 15:36
Nguyên tác
汪汪千頃水連空,
海氣山光指顧中。
靜夜村砧青蓼岸,
遠汀漁火白蘋風。
寒波渚匯成天塹,
皎月團圓屬客蓬。
望入鱗山誰一訪,
徘徊短棹過潭東。
Phiên âm
Uông uông thiên khoảnh thuỷ liên không,
Hải khí sơn quang chỉ cố trung.
Tĩnh dạ thôn châm thanh liệu ngạn,
Viễn đinh ngư hoả bạch tần phong.
Hàn ba chử hối thành thiên tiệm,
Kiểu nguyệt đoàn viên thuộc khách bồng.
Vọng nhập Lân sơn[1] thuỳ nhất phỏng,
Bồi hồi đoản trạo quá đàm đông[2].Dịch nghĩa
Mênh mông muôn khoảnh, nước liền trời,
Khí bể, ánh núi chỉ trong tầm mắt.
Đêm yên tĩnh, tiếng chày đập giặt trong thôn vang lên phía bờ rau liệu xanh,
Lửa nhà chài ở bãi cát phía xa, gió thổi rau tần trắng.
Sóng lạnh, nước xối tạo nên thành luỹ của trời,
Trăng sáng tròn vành vạnh thuộc về mui bồng thuyền khách.
Trông vời Lân sơn, ai là người một lần lên thăm?
Bâng khuâng khua mái chèo ngắn qua phía đông đầm.
Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.
[1] Theo chú thích của tác giả, núi này ở phía tây Hạc Hải.
[2] Nguyên chú: “Nhà Uông Đại hầu ở núi Kỳ Lân, ở phía tây đầm, thường hẹn tôi vào Nam thì ban đêm sẽ đi du ngoạn. Nay đi vội vàng, lòng cứ thấp thỏm, cho nên mới nói đến ông”. Uông Đại hầu tức Bùi Xuân Uông, xem thêm nguyên dẫn bài Điếu Đô ty Uông Đại hầu.