08/09/2024 10:26Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Dĩnh Châu lão ông ca
穎州老翁歌

Tác giả: Nạp Tân - 納新

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nguyên
Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/11/2018 16:27

 

Nguyên tác

穎州老翁病且羸,
蕭蕭短髮秋霜垂。
手扶枯筇行復卻,
探瓢丐食河之湄。
我哀其貧為顧問,
欲語哽咽吞聲悲。
自言城東昔大戶,
腴田十頃桑陰圍。
闔門老稚三百指,
衣食盡足常熙熙。
河南年來數亢旱,
赤地千里黃塵飛。
麥禾稿死粟不熟,
長饞挂壁犁生衣。
黃堂太守足宴寢,
鞭扑百姓窮膏脂。
聒天絲竹夜酣飲,
陽陽不問民啼饑。
市中斗米償十千,
饑人煮蕨供晨炊。
木皮剝盡草根死,
妻子相對愁雙眉。
鵠刑累累口生焰,
臠割餓莩無完肌。
奸民乘隙作大盜,
腰弓跨馬紛驅馳。
嘯呼深林聚凶惡,
狎弄劍槊搖旌旗。
去年三月入州治,
踞坐堂上如熊羆。
長官邀迎吏再拜,
饋送牛酒羅階墀。
城中豪家盡剽掠,
況在村落人煙稀。
裂囊剖筐取金帛,
煮雞殺狗施鞭笞。
今年災虐及陳穎,
疫毒四起民流離。
連村比屋相枕藉,
縱有葯石難扶治。
一家十口不三日,
藁束席卷埋荒陂。
死生誰復顧骨肉,
性命喘息懸毫厘。
大孫十歲賣五千,
小孫三歲投清漪。
至今平正橋下水,
髑髏白骨如山崖。
繡衣使者肅風紀,
下車訪察民瘡痍。
綠章陳辭達九陛,
徹葯減膳心憂危。
朝堂雜議會元老,
恤荒討賊勞深机。
山東建節開大府,
便宜砍斬揚天威。
親軍四出賊奔潰,
渠魁梟首乾坤夷。
拜官納粟循舊典,
戰士踴躍皆歡怡。
淮南私廩久紅腐,
轉輸豈惜千金資。
遣官巡行勤撫慰,
賑粟給幣蘇民疲。
獲存衰朽見今日,
病骨尚爾難撐持。
向非聖人念赤子,
填委溝壑應無疑。
老翁仰天淚如雨,
我亦感激愁歔欷。
安得四海康且阜,
五風十雨斯應期。
長官廉平縣令好,
生民擊壤歌清時。
愿言觀風采詩者,
慎勿廢我潁州老翁哀苦辭。

Phiên âm

Dĩnh Châu lão ông bệnh thả luy,
Tiêu tiêu đoản phát thu sương thuỳ.
Thủ phù khô cùng hành phục khước,
Thám biều cái thực hà chi mi.
Ngã ai kỳ bần vị cố vấn,
Dục ngữ ngạnh yết thôn thanh bi.
Tự ngôn thành đông tích đại hộ,
Du điền thập khoảnh tang âm vi.
Hạp môn lão trĩ tam bách chỉ,
Y thực tận túc thường hy hy.
Hà Nam niên lai sổ cang hạn,
Xích địa thiên lý hoàng trần phi.
Mạch hoà cảo tử túc bất thục,
Trường sàm quải bích lê sinh y.
Hoàng đường thái thú túc yến tẩm,
Tiên phác bách tính cùng cao chi.
Quát thiên ty trúc dạ hàm ẩm,
Dương dương bất vấn dân đề ky.
Thị trung đẩu mễ thường thập thiên,
Cơ nhân chử quyết cung thần xuy.
Mộc bì bác tận thảo căn tử,
Thê tử tương đối sầu song mi.
Hộc hình luỵ luỵ khẩu sinh diệm,
Luyến cát ngạ biễu vô hoàn ky (cơ).
Gian dân thừa khích tác đại đạo,
Yêu cung khoá mã phân khu trì.
Tiêu hô thâm lâm tụ hung ác,
Hiệp lộng kiếm sáo dao tinh kỳ.
Khứ niên tam nguyệt nhập châu trị,
Cứ toạ đường thượng như hùng bi.
Trường quan yêu nghinh lại tái bái,
Quỹ tống ngưu tửu la giai trì.
Thành trung hào gia tận phiêu lược,
Huống tại thôn lạc nhân yên hy.
Liệt nang phẫu khuông thủ kim bạch,
Chử kê sát cẩu thi tiên si.
Kim niên tai ngược cập Trần, Dĩnh,
Dịch độc tứ khởi dân lưu ly.
Liên thôn tỵ ốc tương chẩm tạ,
Túng hữu dược thạch nan phù trị.
Nhất gia thập khẩu bất tam nhật,
Cảo thúc tịch quyển mai hoang bi.
Tử sinh thuỳ phục cố cốt nhục,
Tính mệnh suyễn tức huyền hào ly.
Đại tôn thập tuế mại ngũ thiên,
Tiểu tôn tam tuế đầu thanh y.
Chí kim Bình Chính kiều hạ thuỷ,
Độc lâu bạch cốt như sơn nhi (nhai).
Tú y sứ giả[1] túc phong kỷ,
Hạ xa phỏng sát dân sang di.
Lục chương[2] trần từ đạt cửu bệ,
Triệt dược giảm thiện[3] tâm ưu nguy.
Triều đường tạp nghị hội nguyên lão,
Tuất hoang thảo tặc lao thâm ky (cơ).
Sơn Đông kiến tiết khai đại phủ,
Tiện nghi khảm trảm dương thiên uy.
Thân quân tứ xuất tặc bôn hội,
Cừ khôi kiêu thủ càn khôn di.
Bái quan nạp túc tuần cựu điển,
Chiến sĩ dũng dược giai hoan di.
Hoài Nam tư lẫm cửu hồng hủ,
Chuyển du khởi tích thiên kim tư.
Khiển quan tuần hành cần phủ uý,
Chẩn túc cấp tệ tô dân bì.
Hoạch tồn suy hủ kiến kim nhật,
Bệnh cốt thượng nhĩ nan xanh trì.
Hướng phi thánh nhân niệm xích tử,
Điền uỷ câu hác ưng vô nghi.
Lão ông ngưỡng thiên lệ như vũ,
Ngã diệc cảm kích sầu hư hy.
An đắc tứ hải khang thả phụ,
Ngũ phong thập vũ[4] tư ứng kỳ.
Trưởng quan liêm bình huyện lệnh hảo,
Sinh dân kích nhưỡng[5] ca thanh thì.
Nguyện ngôn quan phong thái thi giả,
Thận vật phế ngã Dĩnh Châu lão ông ai khổ từ.

Dịch nghĩa

Ông lão Dĩnh Châu ốm và gầy
Tóc ngắn pha sương lưa thưa rủ xuống
Tay chống gậy tre đi lâng châng
Cầm cái gáo đi xin ăn ở ven sông
Ta thấy ông nghèo khổ nên hỏi
Ông già muốn nói những lời buồn, cứ nghẹn lại
Rồi nói: xưa mé đông thành có nhà giàu
Có hơn mười khoảnh ruộng đất, dâu xanh um
Già trẻ trong nhà có ba mươi người
Áo cơm đầy đủ lúc nào cũng vui
Mấy năm nay ở Hà Nam bị khô hạn
Nghìn dặm đất đỏ bốc lên bụi vàng
Lúa khô chết không trổ bông được
Mai treo lên vách, cày để rỉ
Nhà cao của quan thái thú, vẫn đủ tiệc đêm
Đánh đập trăm họ hút hết máu mủ
Suốt ngày tiệc tùng đàn hát
Không hề hỏi đến nỗi khổ của người dân đói khóc
Ở chợ, giá một đấu thóc lên mười nghìn
Người đói phải nấu rau quyết để ăn sáng
Vỏ cây rễ cỏ đều đẽo và đào hết
Vợ con nhìn nhau, lông mày nhíu lại
Gầy như thân cò, miệng khô
Đem xác người chết đói cắt ra thì chẳng có tí thịt nào
Dân đói rủ nhau đi ăn cướp
Lưng đeo cung cưỡi ngựa chạy từng tốp
Hô nhau họp đảng ác trong rừng sâu
Phất cờ cầm gươm giáo làm điều rông rỡ
Tháng ba năm ngoái, quân đó kéo vào châu lỵ
Ngồi chễm chệ trên công đường như gấu
Quan châu phải mời mọc, các thầy lại vái đi vái lại
Đem biếu bò rượu bày la liệt ở thềm
Những nhà giàu trong thành bị cướp hết
Huống chi những làng mạc xa vắng
Rạch túi, bổ hòm lấy vàng lụa
Nấu gà giết chó còn đánh đập
Năm nay tai ách lại đến với vùng Trần, Dĩnh
Dịch bệnh tràn lan, dân bỏ đi
Thôn nọ nối thôn kia, nhà nọ liền nhà kia
Dẫu có thuốc cũng khó mà chạy chữa
Có nhà trong ba ngày chết mười người
Bó chiếu đem chôn ngoài gò hoang
Khi cái chết kề bên, chẳng nhìn nhận gì được máu mủ
Mạng sống chỉ còn hơi thở treo sợi tơ mành
Cháu lớn mười tuổi bán được năm nghìn
Cháu nhỏ ba tuổi quẳng xuống dòng nước xanh
Nay ở chân cầu Bình Chính
Đầu lâu và xương trắng chất như gò
Tú y sứ giả đến ghi chép
Xuống xe hỏi xét người dân đói khổ
Làm biểu tâu lên nhà vua
Bỏ uống thuốc, giảm món ăn, vua lo nỗi khổ của dân
Triều đường họp các nguyên lão bàn.
Thương dân phải dẹp giặc nghĩ ra mưu sâu
Sơn Đông dựng cờ tiết mở phủ thống soái
Tuỳ đó mà chém ngay để tỏ oai trời
Quân vua kéo đi các ngả, giặc chạy tan
Chém đầu tên đầu xỏ, đất trời lại yên
Lạy quan, đóng thóc theo như nếp cũ
Chiến binh đều vui nhảy múa
Kho thóc tư ở Hoài Nam để lâu mốc đỏ
Vận chuyển đi các nơi đâu tiếc nghìn vàng
Sai quan đi tuần hành, luôn vỗ về dân
Phát thóc, cấp tiền sức dân hồi lại
Thân này ốm o, may mà còn đến ngày nay
Bệnh tật thế này cũng khó mà trụ nổi
Trước đây, nếu không có thánh nhân thương đến con đỏ
Thì chắc đã lấp vào ngòi rãnh rồi!
Ông già ngước mắt lên trời nước mắt đầm đìa
Ta cũng thấy cảm thương mà sụt sịt
Bao giờ cho bốn biển yên lành và no đủ
Cứ theo kỳ, năm ngày gió, mười ngày mưa
Quan trên liêm, quan huyện tốt
Để dân gõ xuống đất hát thuở thanh bình
Có lời cùng những ai xem phong thái bài thơ này
Cẩn thận, đừng bỏ đi những lời kể buồn khổ của ông già Dĩnh Châu

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Già Dĩnh Châu thân gầy đang ốm
Mái tóc thưa rủ ngắn pha sương
Gậy tre thập thững bên sông
Tay cầm cái gáo đói lòng xin ăn
Ta thương nghèo hỏi han cẩn thận
Lời già như nấc nghẹn, thương sao!
“Thành đông trước có nhà giàu
Sẵn mười khoảnh ruộng mượt màu dâu tươi
Nhà đông đủ ba mươi già trẻ
Đủ áo cơm thường có niềm vui
Hà Nam hạn hán kéo dài
Nghìn dặm đất đỏ cuốn bay bụi vàng
Thóc lúa bị khô rang chẳng trổ
Cuốc cày treo một chỗ rỉ hoen
Nhà cao thái thú tiệc đêm
Đánh đập, sưu thuế dân thêm khốn cùng
Suốt đêm ngày tiệc tùng tơ trúc
Chẳng hề hay đói khóc người dân
Chợ nay đấu gạo mười ngàn
Phải nấu rau quyết bữa ăn sáng ngày
Vỏ cây đẽo, rễ cây đào hết
Mẹ nhìn con nhíu chặt hàng mi
Thân gầy guộc miệng khô đi
Xác người chết đói cắt thì thịt đâu
Dân đói khổ rủ nhau ăn cướp
Lưng đeo cung gươm cắp ruổi rong
Tụ thành đảng ác trong rừng
Phất cờ cầm giáo rỡ rông tha hồ
Lần năm trước tháng ba vào phủ
Chễm chệ ngồi như thể hùm beo
Quan trên đón lại lạy theo
Đem bò rượu biếu đã nhiều lại nhanh
Nhà giàu có trong thành cướp cả
Huống chi nơi vắng vẻ xóm làng
Phá hòm xiểng lấy lụa vàng
Bắt gà giết chó còn mang roi đòn
Nay tai ương đã lan Trần, Dĩnh
Bệnh dịch tràn dân tránh bỏ đi
Nối nhau nhà xóm liền kề
Dẫu cho có thuốc khó bề chữa ngay
Có nhà chỉ ba ngày mười mạng
Bó chiếu đem chôn quãng gò hoang
Sống chết ai có ngó ngàng
Mạng người thoi thóp treo bằng sợi tơ
Năm nghìn bán cháu cu mười tuổi
Ném theo dòng cháu mới lên ba
Chân cầu Bình Chính không xa
Đầu lâu xương trắng như là gò cao
Sứ tú y đến sao lại chép
Bước xuống xe thăm kiếp đau thương
Biểu chương tâu đặng quân vương
Bỏ thuốc giảm món xót thương trong lòng
Chốn miếu đường họp hàng nguyên lão
Giúp mất mùa tiến thảo mưu sâu
Sơn Đông mở phủ lớn lao
Tuỳ mà chém giết nâng cao oai trời
Quân vua ráp khắp nơi giặc vỡ
Đất trời yên đầu xỏ chém ngay
Lạy quan nộp thóc chẳng thay
Sĩ binh nhảy múa vui ngày giặc tan
Kho thóc tư Hà Nam để mục
Dẫu nghìn vàng đâu tiếc chuyển xa
Sai quan tuần cảnh vỗ về
Cấp tiền phát thóc dân quê hồi dần
May ốm o tấm thân còn mạng
Yếu thế này biết chẳng được đâu
Con đỏ không Thánh lo âu
Rãnh ngòi hẳn đã vùi sâu lúc nào”
Ông lão ngước lệ trào ướt mắt
Ta se lòng sùi sụt cảm thương
Bao giờ no đủ bốn phương
Mười mưa năm gió như thường ước ao
Trên đến huyện quan nào cũng tốt
Để dân vang khúc hát âu ca
Sự tình ai đọc thơ qua
Đừng quên khổ tủi lời già Dĩnh Châu
[1] Tức là Tú y trực chỉ, Tú ý ngự sử do Hán Vũ Đế đặt ra, để trị bọn gian hoạt, xét việc đại ngục.
[2] Đạo sĩ dâng sớ lên thiên thần dùng giấy thanh đằng cho nên có tên.
[3] Vua không uống thuốc bổ, giảm bớt món ăn, để tỏ ra chung hoạn nạn với dân.
[4] Cứ năm ngày thì có gió, mười ngày thì có mưa, để chỉ thời tiết thái hoà của thời thái bình.
[5] Tương truyền thời vua Nghiêu thuộc thượng cổ, có ông già gõ xuống đất mà hát “Nhật xuất nhi tác, Nhật nhập nhi tức, Tạc tỉnh nhi ẩm, Canh điền nhi thực, Đế hà lực vu ngã tai?” (Mặt trời mọc đi làm, mặt trời lặn thì nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, vua có làm gì cho ta đâu?) Sau thành điển cố để ca tụng thời thái bình.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nạp Tân » Dĩnh Châu lão ông ca