01/10/2024 14:27Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Độ Hô Đà hà
渡滹沱河

Tác giả: Phan Huy Thực - 潘輝湜

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/09/2024 07:49

 

Nguyên tác

曾觀青史載滹沱,
今日華旌訪此河。
不見真人冰尚濟,
但聞客子渡頭過。
芊綿沙渚水流淺,
蕭瑟金飆秋意多。
麥飯遺亭千古在,
馮公勳蹟未消磨。

Phiên âm

Tằng quan thanh sử tải Hô Đà,
Kim nhật hoa tinh phỏng thử hà.
Bất kiến chân nhân băng thượng tế[1],
Đãn văn khách tử độ đầu qua.
Thiên miên sa chử thuỷ lưu thiển,
Tiêu sắt kim tiêu thu ý đa.
Mạch Phạn[2] di đình thiên cổ tại,
Phùng công[3] huân tích vị tiêu ma.

Dịch nghĩa

Từng xem trong sử sách thấy chép về dòng sông Hô Đà,
Hôm nay cờ sứ mới đến thăm con sông này.
Chẳng thấy chân nhân đi trên băng mỏng qua sông,
Chỉ nghe tiếng những người khách qua đò nơi đầu bến.
Dòng sông nước nông, bãi cát bồi cỏ mọc miên man,
Gió tây thổi se sắt, mang bao ý mùa thu.
Ngôi đình Mạch Phạn còn mãi cùng trời đất,
Công lao to lớn của ông Phùng vẫn chưa bị mai một.
Nguyên chú: “Tại Chính Định phủ thành nam môn ngoại ngũ lý, phát nguyên tự Nhạn Môn lưu lai, sa quảng thuỷ thiển, sứ bộ xa kiệu để tân thứ; huyện quan bị tiểu chu hoành độ, dụng dân phu thiệp thuỷ khiên vãn; ngạn thượng hữu Mạch Phạn đình” 在正定府城南門外五里,發源自雁門流來,沙廣水淺,使部車轎抵津次,縣官備小舟橫渡,用民夫涉水牽挽,岸上有麥飯亭 (Sông Hô Đà ở ngoài cửa nam thành phủ Chính Định khoảng 5 dặm; sông bắt nguồn từ Nhạn Môn [cửa ải của Vạn Lý Trường Thành thuộc huyện Đại, tỉnh Sơn Tây] chảy tới, có bãi cát rộng, nước sông nông nên sứ bộ phải đi xe kiệu đến bến sông; huyện quan ở đây đã chuẩn bị thuyền nhỏ để sang sông, lấy dân phu lội nước kéo thuyền; trên bờ có ngôi đình Mạch Phạn).

Sông Hô Đà hay Hô Đà Giang, tên cổ là Hô Trì, là một con sông chủ yếu thuộc hệ thống Hải Hà. Sông bắt nguồn từ dưới chân núi Thái Hí sơn, huyện Phồn Trĩ, tỉnh Sơn Tây, chảy về phía đông, khi qua địa phận tỉnh Hà Bắc có chảy qua phủ Chính Định.

[1] Cuối thời Tây Hán, Vương Mãng và Lưu Tú (sau là Hán Quang Vũ) giao chiến, Lưu Tú bị đuổi đến bờ sông Hô Đà. Lúc ấy vào mùa xuân, trời ấm, băng tan, nước sông chảy xiết, không thể sang sông, tình thế nguy cấp, Lưu Tú rút kiếm chỉ lên trời hô lớn: “Trời xanh kia! Chẳng phải là ông diệt được Lưu Tú ta rồi sao!” Hô ba lần, bỗng cát bay đá chạy, trời đất mịt mù, một luồng khí lạnh từ trên trời giáng xuống, sông Hô Đà ngay lập tức đóng băng, Lưu Tú quất ngựa phi qua sông, thoát được cuộc truy sát của Vương Mãng. Câu thơ nhắc chuyện này.
[2] Cũng trong cuộc giao tranh với Vương Mãng, Lưu Tú thua nhiều lần. Một lần thua, chạy đến phía nam thành Chính Định, Lưu Tú vừa đói vừa khát gần kiệt sức, phải xin cơm ăn. Bấy giờ đang mùa gặt lúa mạch, một người dân đem cho bát cơm lúa mạch. Ăn xong, hồi sức, Lưu Tú lại chạy thoát được cuộc truy đuổi của Vương Mãng. Sau lên làm vua, nhớ lại ơn cứu mạng của người dân, Lưu Tú hạ chiếu xây một ngôi đình trên con đê lớn của sông Hô Đà ở phía nam thành Chính Định, đặt tên là Mạch Phạn đình.
[3] Tức Phùng Dị (? - 34), tự Công Tôn, người Phụ Thành, Dĩnh Xuyên (nay ở phía đông huyện Bảo Phong, tỉnh Hà Nam), là một danh tướng thời trung hưng Đông Hán, một trong 28 vị tướng được vẽ chân dung ở Vân Đài. Ông tính tình rất khiêm nhường, dù lập công lớn nhưng mỗi lần bình công ông đều lánh ra gốc cây ngồi, không tham gia, vì thế đương thời còn gọi ông là Đại thụ tướng quân. Ông phò tá Lưu Tú từ những ngày chưa lên ngôi; có lần Lưu Tú từ đất Kế rong ruổi xuống vùng đông nam, ngày đêm ăn ngủ trong nhà cỏ, đến Vu Lâu đình ở Nhiêu Dương thì gặp lúc trời rất rét, quân tướng đều đói mệt, Phùng Dị đem dâng cháo đậu. Sáng hôm sau Lưu Tú bảo với chư tướng: “Hôm qua được bát cháo đậu của Công Tôn, qua được cơn đói rét”, về sau “vu lâu chúc” thường dùng để nói sự giúp đỡ khi khó khăn thiếu thốn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phan Huy Thực » Độ Hô Đà hà