21/12/2024 19:33Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 20/09/2024 21:00
Bản dịch của Đỗ Ngọc Toại
Than ôi!
Đảo Bồng[1] khói toả, xe tiên khôn nỗi vin theo;
Sân phong[2] móc sa, nhà thánh về nơi yên nghỉ.
Lòng nhớ mong thường phảng phất chốn canh tường[3];
Nỗi đau xót chỉ ngậm ngùi nơi phủ ỷ[4].
Nhớ xưa:
Đức Thần Vũ vâng mệnh lớn, trên mình ngựa dầy công khai sáng, đem cả non xanh nước biếc về cõi thái bình;
Ơn nhà trời giáng phúc lành, đàn chung tư[5] đương độ đông vui, mừng thấy lá ngọc cành vàng đầy bầu vượng khí.
Sinh thành bao đức cù lao;
Dạ bảo mọi người đường lễ nghĩa.
Thuở nhỏ đã gia công rèn cặp, nhà dưỡng mông[6] từng học đạo tu tề[7];
Đường xa càng để ý lo toan, nơi cung Chấn[8] sớm dựng ngôi thừa kế.
Người hiền tài được vào chốn hổ vi[9];
Cảnh êm ấm khác nào thơ “Lân chỉ[10]”.
Những tưởng bệ son thanh thả, vầng trăng trong chiếu mãi chén quỳnh tương[11];
Nào ngờ con tạo khắt khe, cơn gió lạnh bỗng tràn nơi ngọc kỷ.
Người cưỡi rồng đã xa chốn Đỉnh Hồ[12];
Việc che chở càng nhớ câu Phong thuỷ[13].
Ngoảnh lại bao năm cung kiếm, bỗng lạnh lùng hôm sớm, chỗ ăn nằm đã khác hẳn xưa;
Lo thay một mối non sông, dù nơm nớp vực băng, việc đường cấu[14] vẫn e không xuể.
May oai xưa còn vững, vẻ búa cờ vẫn được huy hoàng;
Đem di chỉ[15] noi theo, lời châu ngọc dường như mới mẻ.
Ngắm hoa cỏ Chiêu Lăng[16] năm trước, bâng khuâng thêm cảm cảnh đình vi[17];
Tùng thu[18] ấp Bái[19] dặm ngàn, man mác những đau lòng mây bể.
Khói nhang nghi ngút biết bậc cùng;
Tơ tóc đền bồi chưa chút kể!
Xe liễu[20] sáng mai sớm cất, xót xa chỉ biết kêu trời;
Khay chén một chút kính dâng, xin tạm gọi là đủ lễ.
Ô hô! Đau đớn thay!
Kính cẩn tấu cáo.
Trong đám tang xưa có nhiều tuần tế, chưa chôn gọi là tế điện. Nhâm Tý tức năm 1892. Hoàng khảo là cha vua, Vũ hoàng đế là miếu hiệu vua Quang Trung, đây chỉ Quang Trung.
[1] Tức Bồng Lai, nơi tiên ở. Trong bài này ý nói người chết về tiên giới.
[2] Chỉ sân nhà vua.
[3] Sau khi vua Nghiêu chết, vua Thuấn thương nhớ, ngồi như thấy bóng vua Nghiêu trên tường, ăn như thấy bóng vua trong bát canh. Do đó điển canh tường thường biểu lộ tình thương nhớ người đã khuất.
[4] Bình phong che chỗ vua ngồi.
[5] Đàn châu chấu. Bài Chung tư trong Chu nam, Kinh thi, nói con cái Văn Vương đông vui như đàn châu chấu. Sau “chung tư” thường để nói đông con cháu.
[6] Nhà dạy trẻ con học.
[7] Đạo tu thân tề gia.
[8] Cung của thái tử ở.
[9] Nơi quan võ đóng.
[10] Thơ Lân chỉ trong Kinh thi ca ngợi con cháu Văn Vương nhiều người tài giỏi.
[11] Chén rượu tiên.
[12] Chỉ việc vua Quang Trung mất.
[13] Thơ Văn Vương hữu thanh trong Kinh thi có câu: “Phong thuỷ hữu hỷ, Vũ Vương khởi bất sĩ? Di quyết tôn mưu, dĩ yếu dục tử” (Sông Phong có cây cỏ hỷ, đâu phải là Vũ Vương không làm gì? Ông vẫn tìm cách lo toan cho cháu và che chở để phòng cho con.)
[14] Đường là đắp nền, cấu là dựng nhà. Kinh thư có câu: “Cha đã có quy mô làm nhà thì con phải đắp nền dựng nhà”. Do đó người ta dùng chữ “đường cấu” để nói việc nối chí của cha.
[15] Tờ chiếu của vua trước để lại trước khi mất.
[16] Tên lăng của Đường Thái Tông, trong văn hay dùng để chỉ chung lăng tẩm các vua.
[17] Chỉ nơi cha mẹ ở.
[18] Hai giống cây ngày xưa hay trồng bên mộ, sau dùng hai chữ ấy để tượng trưng cho ngôi mộ.
[19] Nguyên là quê Hán Cao Tổ, sau hay dùng để chỉ quê vua nói chung.
[20] Xe chở quan tài.