01/10/2024 14:22Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hưng An tảo phát
興安早發

Tác giả: Phan Huy Thực - 潘輝湜

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/09/2024 07:42

 

Nguyên tác

群山署色鬱蒼蒼,
路出靈渠泛渺茫。
填塞河邊砂磧疊,
飛來石畔樹陰長。
江流雙析湘灕派,
地軸交連楚越疆。
忠信風帆憑利涉,
新秋煙景入平章。

Phiên âm

Quần sơn thự sắc uất thương thương,
Lộ xuất Linh Cừ phiếm diểu mang.
Điền tắc[1] hà biên sa thích điệp,
Phi Lai[2] thạch bạn thụ âm trường.
Giang lưu song tích Tương Ly[3] phái,
Địa trục giao liên Sở Việt[4] cương.
Trung tín phong phàm bằng lợi thiệp,
Tân thu yên cảnh nhập bình chương.

Dịch nghĩa

Rạng đông trên dãy núi, ngăn ngắt một màu xanh,
Đường ra Linh Cừ, thuyền bồng bềnh trên khoảng xa vời.
Bãi cạn2 bên sông cát sỏi chồng chất,
Bờ đá Phi Lai3 bóng cây ngả dài.
Dòng chảy chia đôi, thành hai ngả Tương, Ly,
Là trục đường ranh giới giữa đất Việt, đất Sở.
Dương cánh buồm trung tín, thuận dòng lướt nhanh,
Cảnh sắc đầu thu đi vào thơ ngâm vịnh.
Nguyên dẫn: “Chu tự Hưng An huyện thành tân thứ xuất Linh Cừ khẩu, kinh Phi Lai thạch cập Lão Hà khẩu điền tắc xứ chí Tương giang hữu ngạn, thị Sở Việt giao giới, sứ bộ yết cáo Phân Thuỷ từ nhập Tương giang, kinh Thiên Bình phân thuỷ xứ, hữu thạch bài khắc ‘Tương Ly phân thuỷ’ tứ đại tự. Chu trình tự thử thuận lưu nhi hạ.” 舟自興安縣津次出靈渠口,經飛來石及老河口填塞處,至湘江右岸,是楚粵交界,使部謁誥分水祠入湘江,經天平分水處有石牌刻湘灕分水四大字。舟程自此順流而下。 (Thuyền từ bến sông thành huyện Hưng An, ra cửa khẩu Linh Cừ, qua đá Phi Lai và chỗ bãi cạn cửa Lão Hà, đến hữu ngạn sông Tương, là ranh giới đất Sở và đất Việt. Sứ bộ vào làm lễ yết cáo trong đền Phân Thuỷ rồi vào sông Tương, qua chỗ phân thuỷ Thiên Bình, có tấm bia đá khắc bốn chữ lớn: “Tương Ly phân thuỷ” [Nơi sông Tương sông Ly chia dòng]. Từ đây, thuyền thuận dòng xuôi xuống hạ lưu.)

Hưng An là một huyện thuộc thị Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.

[1] Bãi cạn. Theo luật đối thì Điền Tái cũng có thể là một địa danh, nhưng chưa tìm ra là tên nơi nào của Quảng Tây, nên hiểu theo nghĩa thông thường, nghĩa là nơi sỏi đá tích tụ lại.
[2] Trung Quốc nhiều nơi có Phi Lai thạch (đá lạ bay đến), nhưng đây là Phi Lai của tỉnh Quảng Tây, vị trí ở trên Tần đê Linh Cừ. Tương truyền khi đắp con đê này có tinh con lợn mẹ phá hoại, cứ ngày đắp đêm lại đổ, sau vào một đêm mưa to gió lớn có một khối đá từ núi Phi Nga bay tới trấn áp tinh lợn; sau cứ theo vị trí khối đá mà đắp đê mới thành.
[3] Nói gộp sông Tương và sông Ly. Thời xưa nhầm cho rằng 2 sông cùng phát nguyên một nơi, nhưng thực ra sông Tương phát nguyên từ Hải Dương sơn thuộc khu tự trị Tráng tộc Quảng Tây, còn sông Ly thì phát nguyên từ dãy Miêu Nhi sơn. Lịch Đạo Nguyên thời Bắc Nguỵ, sách Thuỷ kinh chú ghi: Sông Tương và sông Ly cùng nguồn, chia làm 2 nhánh, nhánh phía nam là sông Ly, nhánh phía bắc là sông Tương. Có thể Phan Huy Thực theo sách này.
[4] Hai quốc gia Bách Việt xưa, đều ở vùng phía nam Trung Quốc (chữ Việt ở lời dẫn viết 粵), các sứ giả Việt Nam hay dùng các tên gọi này.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phan Huy Thực » Hưng An tảo phát