21/12/2024 21:19Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/03/2015 19:13
Nguyên tác
蕭史幽棲地,
林間蹋鳳毛。
洑流何處入,
亂石閉門高。
客醉揮金碗,
詩成得繡袍。
清秋多賞樂,
終日困香醪。
Phiên âm
Tiêu Sử[1] u thê địa,
Lâm gian đạp phượng mao.
Phục lưu hà xứ nhập,
Loạn thạch bế môn cao.
Khách tuý huy kim oản,
Thi thành đắc tú bào.
Thanh thu đa thưởng nhạc,
Chung nhật khốn hương lao.Dịch nghĩa
Đây là chỗ náu thân của Tiêu Sử,
Trong rừng mà dẫm lên những vật quý,
Dòng nước ngầm từ đâu mà tới vậy,
Đá lởm chởm cửa đóng tuốt trên cao.
Khách say rượu múa may cái chén vàng,
Bài thơ làm xong được tặng thưởng áo thêu.
Mùa thu trong rất ham thích thưởng thức ca nhạc,
Suốt cà ngày cứ lảo đảo vì rượu thơm.Bản dịch của Phạm Doanh
Chốn vắng của chàng Tiêu,
Rừng sâu cảnh đẹp dẫm.
Dòng xoáy từ đâu vào,
Ngăn cửa đá từng tấm.
Khách say vung chén vàng,
Thư xong được áo gấm.
Thưởng nhạc bầu thu trong,
Suốt ngày rượu thơm ngấm.
(Năm 754)
Lời tự: "Kinh thành đông hữu Thôi Huệ Đồng phò mã sơn trì" 京城東有崔惠童駙馬山池 (Phía đông kinh thành có ao núi của phò mã Thôi Huệ Đồng).
[1] Theo Liệt tiên truyện 列仙傳, Tiêu Sử là người thời Xuân Thu, có tài thổi sáo, tiếng như chim phượng, Tần Mục Công mang con gái là Lộng Ngọc 弄玉 gả làm vợ, cho ở trong lầu phượng. Tiêu Sử dạy Lộng Ngọc thối sáo, khiến chim phượng tới cả bày. Lộng Ngọc cưỡi phượng, Tiêu Sử cưỡi rồng, vợ chồng cùng lên tiên.