22/12/2024 13:28Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/09/2024 22:56
Nguyên tác
仙槎萬里客,
旌節駐前川。
酷暑妨閑醉,
迥刁警署眠。
鄉心雲嶺外,
吟興夕陽邊。
捲起孤篷看,
歸帆遠浦煙。
Phiên âm
Tiên sà[1] vạn lý khách,
Tinh tiết trú tiền xuyên.
Khốc thử phương nhàn tuý,
Quýnh điêu cảnh thự miên.
Hương tâm vân lĩnh[2] ngoại,
Ngâm hứng tịch dương biên.
Quyển khởi cô bồng khán,
Quy phàm viễn phố yên.Dịch nghĩa
Khách cưỡi bè tiên vượt xa ngàn dặm,
Cờ tiết sứ dừng lại nơi dòng sông phía trước.
Cái nóng oi nồng, ngăn thú say uống rượu,
Kẻng cầm canh xa xa, đánh thức giấc ngủ ban mai.
Lòng nhớ quê gửi vào đám mây ngoài Ngũ Lĩnh,
Hứng thơ khơi dậy trong bóng chiều tà.
Nâng mui thuyền lẻ loi, nhìn ngắm,
Cánh buồm trở về trong khói nước nơi bến xa.Bản dịch của Trần Thị Băng Thanh
Bè tiên, khách vạn dặm,
Thuyền sứ neo bên bờ.
Nóng nực ngại nâng chén,
Mõ canh khuấy giấc mơ.
Lòng quê mây Lĩnh ngoại,
Thi hứng bóng chiều tà.
Nâng mái bồng ngắm cảnh,
Thuyền về khói bến xa.
Nguyên dẫn: “Tả Giang Đạo đài thứ mệnh trường tống nhưng lưu lai giao cát công vụ, đính dĩ nhị thập ngũ nhật khai thuyền” 左江道臺次命長送仍留來交割公務,訂以二十五日開船 (Quan Tả Giang Đạo ra lệnh cho viên Trường tống lưu lại giao cắt công việc, hẹn đến ngày 25 thuyền khởi hành).
[1] Theo Hán thư, Trương Khiên, một nhà quân sự và ngoại giao nổi tiếng thời Hán Vũ Đế, đã đi đến nhiều nước nhỏ miền tây bắc Trung Quốc. Theo sách Bác vật chí, Trương Khiên một lần cưỡi bè đi sứ, đến một nơi thấy có người con gái dệt cửi và một người đàn ông dắt trâu cho uống nước bên một dòng sông nhỏ, hỏi ra mới biết đó là sông Ngân Hà. Trong văn học thường dùng điển này để nói việc đi sứ.
[2] Theo từ điển Từ hải, Ngũ Lĩnh là tên gọi chung 5 dãy núi Việt Thành, Đô Bàng, Manh Chử, Kỵ Điền và Đại Dữu, thuộc biên khu các tỉnh Tương, Chương, Việt, Quế; song cũng có sách lại chép Ngũ Lĩnh gồm Đại Dữu, Thuỷ An, Lâm Hạ, Yết Duơng và Quế Dương.