01/10/2024 14:25Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phiếm Động Đình hồ kỳ 2
泛洞庭湖其二

Tác giả: Phan Huy Thực - 潘輝湜

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/09/2024 10:49

 

Nguyên tác

水光雲影混青冥,
江盡三湘入洞庭。
孤嶼煙開斑竹廟,
疾帆風度白蘋汀。
東南浩瀚分吳楚,
今古蒼忙漫日星。
萬里仙槎秋泛穩,
鐵牛津畔酒初醒。

Phiên âm

Thuỷ quang vân ảnh hỗn thanh minh,
Giang tận Tam Tương[1] nhập Động Đình.
Cô dữ yên khai Ban Trúc miếu[2],
Tật phàm phong độ Bạch Tần[3] đinh.
Đông Nam hạo hãn phân Ngô, Sở,
Kim cổ thương mang mạn nhật tinh.
Vạn lý tiên sà thu phiếm ổn,
Thiết Ngưu[4] tân bạn tửu sơ tinh.

Dịch nghĩa

Bóng mây ánh nước hoà quyện một màu xanh thăm thẳm,
Ba khúc sông Tương đổ hết vào hồ Động Đình.
Trên đảo nhỏ khói tan lộ ra miếu Ban Trúc,
Gió đưa cánh buồm lướt nhanh qua bãi Bạch Tần.
Phía đông nam mênh mang chia hai nước Ngô, Sở,
Kim cổ mờ mịt, tản mát trời, sao.
Bè tiên vạn dặm lướt trong trời thu yên ả,
Đến bên bờ Thiết Ngưu mới tỉnh rượu say.
[1] Nguyên chú: “Án đồ chí Tương giang nhất đới tự Thiên Bình phân thuỷ xứ chí Hành Châu vi Thượng Tương, tự Hành Châu chí Tương Đàm vi Trung Tương, tự Tương Đàm chí Tương Dương vi Hạ Tương, vị chi Tam Tương” 按圖志湘江一帶自天平分水處至衡州為上湘,自衡州至湘潭為中湘,自湘潭至湘陽為下湘,謂之三湘 (Theo bản đồ ghi: Dòng sông Tương chảy từ chỗ phân dòng Thiên Bình đến Hành Châu gọi là Thượng Tương; từ Hành Châu chảy đến Tương Đàm gọi là Trung Tương; từ Tương Đàm chảy đến Tương Dương gọi là Hạ Tương. Vì thế gọi là Tam Tương.)
[2] Tức Lư đế Nhị phi miếu. Nguyên chú: “Hồ trung Quân sơn sản hồng quất, tước thiệt trà, mạo đại trúc, hữu miếu tự Ngu đế nhị phi” 湖中君山產紅橘,雀舌茶,瑁玳竹,有廟祀虞帝二妃 (Núi Quân trong hồ Động Đình có trồng quít hồng, trà tước thiệt, trúc đồi mồi, có miếu thờ hai bà phi của vua Thuấn). Tương truyền xưa vua Nghiêu thấy Thuấn là người tài đức liền truyền ngôi và gả cho cả 2 người con gái tên Nga Hoàng, Nữ Anh làm vợ. Một lần Thuấn đi tuần thú phương nam, lâu không về, hai bà đi tìm chồng, đến hồ Động Đình, lên núi Quân Sơn trông ngóng thì được tin Thuấn đã mất, chôn ở cánh đồng Thương Ngô (núi Cửu Nghi). Hai bà ôm cây trúc khóc, huyết lệ rơi vào thân trúc khiến trúc thành ra sắc lốm đốm, đời sau gọi là “ban trúc” (trúc có vân). Hai bà thương khóc rồi chết, được chôn cất trên núi Quân Sơn. Sau mộ được xây đá, có bia đề “Lư đế Nhị phi chi mộ”. Không thấy Trung Quốc danh thắng từ điển nói đến miếu thờ, có lẽ miếu thờ mà Phan Huy Thực nói là khu mộ này.
[3] Tên bãi rau Bạch Tần trong hồ Động Đình.
[4] Tên một bến trong hồ Động Đình.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phan Huy Thực » Phiếm Động Đình hồ kỳ 2