21/01/2025 19:38Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nguyên
Đăng bởi Vanachi vào 15/12/2018 10:12
Nguyên tác
黃鶴樓前木葉黃,
白雲飛盡岸茫茫。
櫓聲搖月歸巫峽,
燈影隨潮過漢陽。
庾令有塵污汗簡,
禰生無土蓋文章。
欄干空有當年柳,
留與行人說武昌。
Phiên âm
Hoàng Hạc lâu tiền mộc diệp hoàng,
Bạch vân phi tận ngạn mang mang.
Lỗ thanh dao nguyệt quy Vu Giáp[1],
Đăng ảnh tuỳ triều quá Hán Dương.
Dữu lệnh[2] hữu trần ô hãn giản,
Nễ sinh[3] vô thổ cái văn chương.
Lan can[4] không hữu đương niên liễu,
Lưu dữ hành nhân thuyết Vũ Xương.Dịch nghĩa
Trước lầu Hoàng Hạc, lá vàng rơi,
Mây trắng bay đi hết, sông chảy dài xa xăm.
Tiếng mái chèo đung đưa dưới trăng đưa thuyền về Vu Giáp,
Bóng ngọn đèn trên thuyền chiếu xuống nước trôi theo sóng về Hán Dương.
Dữu Lượng có công lao được ghi trong sử sách,
Nễ Hành không tìm được đất dung được tài văn chương của mình.
Trước sau chỉ thấy còn lại hàng dương liễu năm xưa,
Là ở lại cùng nói chuyện với người đi qua về Vũ Xương.Bản dịch của Như Quy
Hoàng Hạc lầu cao lá rụng vàng,
Mây trời bay hết, sóng mang mang.
Chèo theo trăng sáng về Vu Giáp,
Đèn đuổi sóng vờn tới Hán Dương.
Dữu Lượng có công lưu sử sách,
Nễ Hành không đất dụng văn chương.
Trước sau còn lại đôi hàng liễu,
Cùng với người qua chuyện Vũ Xương.
Bến Ngạc bên bờ sông Vũ Xương. Tên bài có sách chép là Đăng Hoàng Hạc lâu 登黃鶴樓.
Nguyễn Du khi bình bài thơ Đăng Hoàng Hạc lâu tác 登黃鶴樓作 của Lê Quang Định trong Hoa Nguyên thi thảo có nhắc tới bài thơ này: “Thôi Hiệu thi thành, hậu nhân đáo thử cánh đạo bất đắc; thử cú tòng Trần Trung cấu xuất tân tứ, khả dĩ vịnh Hoàng Hạc hĩ” 崔灝詩成,後人到此竟道不得;此句從陳中構出新思,可以詠黃鶴矣 (Thôi Hiệu làm thơ xong, người sau tới không viết được nữa; câu này từ thơ Trần Trung, lại tạo tứ mới lạ, xứng đáng thơ vịnh lầu Hoàng Hạc). “Thử cú” (câu này) trong lời bình là nói về câu đầu bài thơ của Lê Quang Định. Trần Trung tức Trần Phu, tự Cương Trung 剛中.
[1] Một trong ba kẽm ở sông Trường Giang.
[2] Tức Dữu Lượng 庾亮 tự Nguyên Quy 元規, đời Đông Tấn, từng đóng quân ở Vũ Xương, tuy ngoài xa nhưng có công lớn trong việc duy trì và bảo vệ triều chính. Vương Đạo từng nói “Nguyên Quy trần ô nhân” 元規塵污人 ví ông với bụi vây phủ xung quanh bảo vệ vương triều.
[3] Nễ Hành 彌衡 cuối đời Đông Hán, giỏi nhưng tính ngạo nghễ không được ai trọng dụng, mắng Tào Tháo khiến Tháo nổi giận đuổi sang Lưu Biểu. Lưu Biểu cũng không thích nên lại gửi tới Hoàng Tổ. Ông lại mắng Hoàng Tổ là “vị thần trong miếu”, ý không coi Hoàng Tổ ra gì nên bị Tổ sai chém đầu. Lưu Biểu thấy vậy tiếc tài sai người đem về chôn ở bãi Anh Vũ. Lý Bạch có bài Vọng Anh Vũ châu hoài Nễ Hành 望鸚鵡洲懷禰衡.
[4] Ý nói dọc ngang khắp nơi.