23/01/2025 08:23Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 02/09/2024 09:42
Nguyên tác
錦機插出燕閒堂,
拋擲梭聲雨戛塘。
支石秘藏難問卜,
迴文新思懶成章。
日添長線愁西陸,
風度寒鍾憶景陽。
最是織星同寂寞,
牽牛渚畔渺何方。
Phiên âm
Cẩm cơ tháp xuất yến nhàn đường,
Phao trịch thoa thanh vũ kiết đường.
Chi thạch[1] bí tàng nan vấn bốc,
Hồi văn[2] tân tứ lãn thành chương.
Nhật thiêm trường tuyến sầu tây lục[3],
Phong độ hàn chung ức Cảnh Dương[4].
Tối thị Chức tinh đồng tịch mịch,
Khiên Ngưu chử bạn diểu hà phương.Dịch nghĩa
Khung cửi dệt gấm bày ra trong nhà thảnh thơi,
Tiếng thoi đưa như mưa sầm sập bên ao.
Dấu kín hòn đá Chi cơ, khó hỏi thày bói,
Tứ mới của bài “Hồi văn”, ngại chắp thành câu.
Ngày kéo dài thêm, buồn trên miền tây,
Gió đưa tiếng chuông lạnh, nhớ lầu Cảnh Dương.
Buồn nhất là khi cùng Chức Nữ trong cảnh vắng vẻ,
Chàng Ngưu Lang cạnh bến man mác ở phương nào?Bản dịch của Phạm Trọng Chánh
Khung dệt gấm bày nhà thảnh thơi,
Ao mưa sầm sập tiếng đưa thoi.
Dấu đá Chi cơ xem khó bói,
Tứ mới “Hồi văn” ngại viết lời.
Ngày kéo sầu dài Tây Lục xứ,
Gió đưa chuông lạnh Cảnh Dương đài.
Buồn sao Chức Nữ khi hoang vắng,
Man mác Ngưu Lang biết hỏi ai?
[1] Theo Hán thư, Trương Khiên đi tìm nguồn sông Hoàng Hà, cưỡi bè đi qua một vùng, thấy có thành quách như châu huyện, trong nhà có cô gái ngồi dệt cửi, lại gặp một chú chăn trâu bên bờ sông. Cô gái dệt cửi tặng cho một hòn đá Chi cơ, dùng kê khung cửi, Trương Khiên mang về, sau có đem đến hỏi thày bói.
[2] Đời Tần, Đậu Thao đi thú xa, vợ là Tô Huệ dệt bài Hồi văn vào gấm, dâng lên nhà vua để xin cho chồng về.
[3] Về mùa hạ, mặt trời đi trên đường bạch đạo ở phương tây, gọi là “tây lục”, ngày về mùa đó kéo dài ra.
[4] Tề Vũ Đế có sai treo chuông trên lầu Cảnh Dương, để cho cung nhân nghe tiếng chuông dậy sớm mà trang điểm.