21/12/2024 18:54Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/09/2024 20:46
Nguyên tác
京邸談文知老蘊,
邊城同事羨英流。
珠璣落筆誇詞藻,
冰雪操躬折訟由。
已幸芝蘭居與善,
可堪雲樹旅分愁。
春官更假秋官任,
要使無冤播誦謳。
Phiên âm
Kinh để đàm văn tri lão uẩn,
Biên thành đồng sự tiện anh lưu.
Châu ky lạc bút khoa từ tảo,
Băng tuyết thao cung chiết tụng do.
Dĩ hạnh chi lan[1] cư dữ thiện,
Khả kham vân thụ[2] lữ phân sầu.
Xuân quan canh giả thu quan nhậm,
Yếu sử vô oan bá tụng âu.Dịch nghĩa
Bàn luận văn chương ở quán khách kinh đô, biết ông là bậc cao niên sâu sắc,
Các đồng sự bên kinh thành hâm mộ bậc anh tài lỗi lạc.
Hạ bút, khoe ngôn từ văn thơ đẹp như châu ngọc,
Giữ mình trong sạch như băng tuyết để phán quyết căn nguyên của việc kiện tụng.
Đã may mắn vì được ở cùng người tốt, có tình cảm tốt đẹp như chi lan,
Lại phải chịu nỗi nhớ nhung vì xa cách khi phải buồn rầu chia tay nơi lữ quán.
Từ chức quan bộ Lễ lại chuyển sang nhận chức quan về hình pháp,
Cốt sao khiến cho không có việc oan khuất thì sự tụng ca sẽ truyền khắp.
Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.
[1] Lấy ý câu nói của Khổng Tử trong sách Khổng Tử gia ngữ: “Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất” (Ở cùng người tốt, như vào trong nhà thơm mùi cỏ chi cỏ lan). Sau, “chi lan” thường được ví với tình cảm bạn bè tốt đẹp, thân thiết.
[2] Nhớ nhung vì xa cách, chỉ nỗi nhớ bạn bè vì cách xa. Trong bài Xuân nhật ức Lý Bạch của Đỗ Phủ có câu “Vị bắc xuân thiên thụ, Giang đông nhật mộ vân” (Người thì trong cây mùa xuân ở phía bắc sông Vị, Người thì trong mây buổi chiều ở phía đông sông Trường Giang). Do đó người ta dùng hai chữ “vân thụ” để nói tình bè bạn ở xa nhớ nhau.