21/12/2024 21:11Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ca trù (hát nói); Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/02/2020 22:13
Mưỡu:
Giang sơn một chiếc thuyền bồng,
Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.
Đòi cơn sóng cả thuyền trôi,
Ra tay quấy nước xoay trời như không.
Nói:
Đồi ba chỉ trụ[1],
Khen ông chài thuỷ thủ[2] giỏi giang thay.
Một con thuyền lượn sóng chèo mây,
Việc trời bể một tay ông chuyển bát.
Tứ hải vi gia trường tuế nguyệt[3],
Nhất thân thị đảm tác sơn hà[4].
Trải bao nơi bể rộng trời xa,
Tay chèo lái được đà càng cứng chắc.
Dực hồ như hồng mao chi ngộ thuận phong, bái hồ như cự ngư chi túng đại hác[5],
Càng phong đào càng tỏ mặt non sông.
Giang hồ mãn địa nhất ông[6].
[1] Chữ Hán: 頹波砥柱. Nghĩa: Cột đá đứng giữa sóng cồn.
[2] Tay giỏi ở dưới nước.
[3] Chữ Hán: 四海為家長歲月. Nghĩa: Quanh năm ngày tháng lấy bốn biển làm nhà.
[4] Chữ Hán: 一身是膽作山河. Nghĩa: Một thân toàn là gan mật chống chọi non sông.
[5] Chữ Hán: 翼乎如鴻毛之遇順風,沛乎如巨魚之縱大壑. Nghĩa: Hùng mạnh như cánh chim hồng gặp cơn gió thuận, vùng vẫy như cá lớn vượt ra hang to. Câu này ở bài Tụng thánh chủ đắc hiền thần của Vương Bao đời Hán.
[6] Chữ Hán: 江胡滿地一翁. Nghĩa: Giang hồ khắp nơi có một mình ông. Bài Thu hứng của Đỗ Phủ: “Quan tái cực thiên duy điểu đạo, Giang hồ mãn địa nhất ngư ông” 關塞極天惟鳥道,江湖滿地一漁翁 (Cửa ải cao sát trời duy chỉ có đường chim bay, Sông hồ khắp mọi nơi có một ông chài).