23/12/2024 00:15Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/09/2024 15:16
Nguyên tác
海途綿邈駐征輿,
荻葦孤村數矮廬。
漏送濤聲催枕簟,
窗含露滴透衣裾。
驛兵寢地禾根煖,
館媼供廚芥葉餘。
身縱不為名利役,
誰堪雪夜到沙墟。
Phiên âm
Hải đồ miên mạc trú chinh dư,
Địch vĩ cô thôn sổ nuỵ lư[1].
Lậu tống đào thanh thôi chẩm điệm,
Song hàm lộ trích thấu y cư.
Dịch binh tẩm địa hoà căn[2] noãn,
Quán ảo cung trù giới diệp dư.
Thân túng bất vi danh lợi dịch,
Thuỳ kham tuyết dạ đáo sa khư?Dịch nghĩa
Đường ven biển dài dằng dặc, xe đi xa trú lại,
Xóm thôn lẻ loi với mấy mái nhà tranh thấp lè tè nơi lau lách.
Giọt đồng hồ đưa tiếng sóng đến thôi thúc gối chiếu,
Song cửa mang giọt móc thấm vào tay áo.
Lính trạm ngủ trên đất có ổ rơm rạ ấm áp,
Bà chủ quán nấu bếp mang lên toàn lá rau cải.
Nếu thân mình không để bị danh lợi sai khiến,
Thì ai chịu đang đêm tuyết lạnh đến nơi gò cát này?
Phạm Văn Ánh dịch nghĩa.
[1] Nguyên văn viết là “lô” 蘆, nghĩa là cây lau, theo đó, cả câu nghĩa là “Thôn lẻ loi chỗ lau sậy có mấy cây lau thấp”, lặp ý và lủng củng, e nhầm từ chữ “lư” 廬 (nhà tranh) nên sửa lại.
[2] Nghĩa đen là gốc lúa. Dân quê xưa trời rét không có chăn đệm, thường dùng rơm rạ trải làm ổ nằm cho ấm. Thói quen này đến những năm 60 của thế kỷ XX vẫn còn tương đối phổ biến ở Bắc Bộ.