22/12/2024 13:20Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 21/09/2024 22:13
Nhất hiểu Quy Nhân phủ: quan, quân, dân thứ đẳng tri:
Tướng vâng quyền chế ngoại[1], dẹp lửa binh mà trợ lấy dân lành;
Người sẵn tính giáng trung[2], cởi lưới ngược lại noi về đường thuận.
Mấy lời cặn kẽ;
Đòi chốn sum vầy.
Quý phủ ta:
Cội gốc nền vương;
Dậu phên nhà nước.
Miền thang mộc[3] vốn đúc non gây bể, mở mang bờ cõi bởi từ đây;
Hội phong vân từng dìu phượng vin rồng, ghi tạc để quyến đành dõi để[4].
Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận[5];
Buổi xe nhung thêm đóng sức cần vương.
Mấy phen gió bụi nhọc con đòng[6], giúp oai võ cũng đều nhờ đất cũ;
Ba huyện đá vàng bền tấc dạ, căm cừu thù chi dễ đội trời chung.
Tiệc ca phong trầm nhạn vừa yên[7];
Với tĩnh hải tăm kình lai động[8].
Đoàn ngoại vũ lung lăng quen thói, nương thế đèo, đường Bến đá chia ngăn[9];
Kẻ khổn tư dáo dở nên lòng, phụ ơn nước, chốn thành vàng phút bỏ[10].
Nơi trọng địa xảy nên gai góc;
Lũ lương giarơi phải lầm than.
Kẻ thì sa vào thế hiếp tòng[11], trót lỡ bước dễ biết đâu tránh thoát?
Kẻ thì quá nghe lời khu dụ, dẫu ngậm hờn nào có kịp nàn than!
Giận vì địch thế hãy buông tuồng;
Xót đến ân tình càng áy náy.
Trong một cõi, nỗi hoành ly[12] là thế, đầu tên trước đạn, nghĩ cỏ cây âu đã đổi màu xưa;
Trên chín lần[13], niềm trắc ẩn dường bao, sớm áo trưa cơm[14], mông đệm chiếu lại cùng êm nếp cũ.
Trước diễn khấu ngửa vang tiếng ngọc;
Việc đổng nhung xa chỉ ngọn đào.[15]
Bản tước[16] nay:
Chịu mạng đền phong[17];
Buông oai dinh liễu[18].
Thế phân đạo gấu hò hùm thét, suối rừng pha đồn luỹ đã tan tành;
Cảnh sơ xuân hoa rước oanh chào, đất nước thấy quan quân càng hớn hở.
Suý mạc[19] vốn quyết bài tất thắng;
Tông thành âu hẹn buổi phục thù.
Ngẫm chúng tình[20] đã quải cách bấy lâu, sự biến ấy hoặc có người nghi cụ[21];
Vậy trưởng lệnh phải đinh ninh đòi nhẽ, thân cố ta cho biết nẻo tòng vi[22].
Nghiệm có trời đành thu góp về nhân;
Vâng ngôi thánh lấy chở che làm lượng.
Bao nhiêu kẻ trót theo đảng dữ, như đã thích mê hồi thiện[23] thì đều noi chức nghiệp cũ cho yên;
Hoặc mấy người riêng bẩm chí cao, mà hay nỗ lực lập công, ắt lại chịu ân thưởng nay càng hậu.
Dầu trước có hà tì[24] nào xá trách;
Ai sớm hay hối ngộ thảy đều dung.
Hội thanh minh dành trên dưới cùng vui;
Người Bái quận[25] [?] móc mưa hiệp sái[26].
Phương tị tựu ví kíp chầy chưa tỏ[27];
Thuở Côn cương ngọc đá khôn chia[28].
Nghĩa cả mựa lầm[29];
Lòng ngay xá giữ.
Nay hiểu.
Mùa xuân năm Canh Thân (1800) thay lời Trần Quang Diệu viết bài hiểu dụ quân dân thành Quy Nhơn bằng quốc âm (Quy Nhơn là quê hương nhà Tây Sơn nên gọi Tông Thành). Theo nguyên dẫn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Mùi (1799) tiến quân xuống phía nam, ngày 29 đến Bến Đá, chia quân làm 3 đạo, vượt qua núi non hiểm trở thẳng tiến. Ngày 2 tết Canh Thân, Diệu đến thành Quy Nhơn bao vây bốn mặt. Nhận tờ chiếu của Diệu dâng lên, vua Cảnh Thịnh sai (Phan Huy Ích) làm bài hiểu dụ bằng Nôm niêm yết nơi quân thứ, để vỗ về yên ủi quân lính và dân chúng.
[1] Tướng vâng lệnh cầm quân bên ngoài.
[2] Người ta ai cũng sẵn tính theo về đường phải.
[3] Chỉ nơi phát tích đế vương.
[4] Tên được ghi vào thẻ tre, mặt lụa để tiếng thơm về sau.
[5] Công tôn phò giúp đỡ nhà vua.
[6] Chiếc giáo mũi nhọn.
[7] Do điển Hán Cao Tổ khi qua Ấp Bái, đặt tiệc, gõ nhịp hát bài Đại phong ca.
[8] Biển lặng, giặc dã nơi xa lại nổi dậy.
[9] Bấy giờ thành Quy Nhơn thất thủ, quân nhà Nguyễn đóng án ngữ, nên đường từ Bến Cát đến Quy Nhơn bị ngăn chặn.
[10] Chỉ việc Nguyễn Bảo, con Nguyễn Nhạc đem thành Quy Nhơn ra hàng nhà Nguyễn.
[11] Vì bắt ép mà phải gượng theo.
[12] Nông nỗi sa vào vòng ngang trái đau khổ.
[13] Chỉ vua Cảnh Thịnh.
[14] Vì bận rộn quá sớm đã phải thay áo, muộn mới ăn cơm.
[15] Trên vâng lời vua phán, lo tính mưu chước dẹp giặc, coi giữ việc binh, thẳng trỏ cờ đào.
[16] Chỉ Trần Quang Diệu.
[17] Trong cung Hán xưa trồng nhiều cây phong nên người sau dùng chữ “đền phong” để chỉ triều đình.
[18] Tướng Chu Á Phu đời Hán đóng quân doanh ở Tế Liễu, nhân thế đời sau gọi quân doanh là “dinh liễu”.
[19] Nơi màn trướng bàn việc quân cơ.
[20] Lòng người.
[21] Nghi ngờ sợ sệt.
[22] Cho kẻ thân tình, người cố cựu biết hai đường phải trái chọn lựa mà đi.
[23] Bỏ điều mê quay về đường thiện.
[24] Tì vết lỗi lầm.
[25] Bái quận là quê hương của Hán Cao Tổ, trong bài chỉ dân chúng thành Quy Nhơn, quê quán của Tây Sơn. Sau ba chữ “người Bái quận” mất một chữ.
[26] Ban ơn huệ cho khắp mọi người.
[27] Nếu không sớm chọn đường lành tránh đường dữ.
[28] Bấy giờ như cảnh núi Côn Sơn bị thiêu, ngọc đá thảy đều cháy rụi hết.
[29] Nghĩa cả chớ lầm.