16/09/2024 16:51Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thiên quân thái nhiên phú
天君泰然賦

Tác giả: Ngô Thì Nhậm - 吳時任

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Tây Sơn
Đăng bởi Hiền Tư vào 30/05/2024 15:37

 

Nguyên tác

也翕,也闢;
何慮,何思?
蓋陶鑄之由命;
豈智力之能為?
天君泰然,遵道乎無反無側;
上帝臨汝,順則於不識不知。

何為天?
浩浩無垠;
洋洋峻極。
雲行雨施各流形;
日往月來無休息。
鼓鑄機緘默運,慘則萬物皆慘,舒則萬物皆舒;
發生道理自然,白者萬古常白,黑者萬古常黑。

何謂天君?
靈臺瑩靜;
虛室玲瓏。
無意,必,固,我;
知剛,柔,變,通。
用則行,舍則藏,出,處,語,黙,皆通乎時義;
言之信,行之果,死,生,驚,懼,不入乎胸中。

故君子:
知所操持;
在茲紬繹。
雍雍以迓喈喈;
蕩蕩而無戚戚。
恭敬而事上,如風從虎,雲從龍;
明哲以保身,毋據于藜,困于石。

乃能:
吉無不利;
動罔弗藏。
可以任重致遠;
於焉受祉發祥。
享君子之備福,完君子之令名,天保:「俾爾戩榖」;
居天下之廣居,行天下之達道,洪範:「身其康彊」。

試觀:
載諸簡編;
足為監戒。
屈原,介子,孤憤自戕;
靈運,羲之,輕投取敗。
郭汾陽安義命,仗忠信,少貴,老全;
呂平章處大事,不糊塗,國安,家泰。

居吾語子:
為臣不易;
行路甚難。
頭角雖云昂聳;
鬢髦忽已蒼班。
上下無常,進退無恆,且要勤行不息;
西南為夷,東北為險,必思順處乃安。

深思哉:
太清一鐘;
大燕三爵。
須覺悟於未明;
勿沈酣而自虐。
時推移而變化,輪彈隨與往來;
剛短折柔久長,齒舌豈爭彊弱。
余蓋論性命之一端,
若全體處,尚猶滄海之一勺!

Phiên âm

Dã hấp, dã tịch:
Hà lự, hà tư?
Cái đào chú chi do mệnh;
Khởi trí lực chi năng vi?
Thiên quân thái nhiên, tuân đạo hồ vô phản vô trắc;
Thượng đế lâm nhữ, thuận tắc ư bất thức bất tri.

Hà vi thiên?
Hạo hạo vô ngân;
Dương dương tuấn cực.
Vân hành vũ thí các lưu hình;
Nhật vãng nguyệt lai vô hưu tức.
Cổ chú cơ giam mặc vận, thảm tắc vạn vật giai thảm, thư tắc vạn vật giai thư;
Phát sinh đạo lí tự nhiên, bạch giả vạn cổ thường bạch, hắc giả vạn cổ thường hắc.

Hà vị thiên quân?
Linh đài oánh tĩnh;
Hư thất linh lung.
Vô ý, tất, cố, ngã[1];
Tri cương, nhu, biến, thông.
Dụng tắc hành, xả tắc tàng, xuất, xử, ngữ, mặc, giai thông hồ thời nghĩa;
Ngôn chi tín, hành chi quả, tử, sinh, kinh, cụ, bất nhập hồ hung trung.

Cố quân tử:
Tri sở thao trì;
Tại tư trừu dịch.
Ung ung dĩ nhạ giai giai;
Đãng đãng nhi vô thích thích.
Cung kính nhi sự thượng, như phong tòng hổ, vân tòng long;
Minh triết dĩ bảo thân, vô cứ vu lê, khốn vu thạch.

Nãi năng:
Cát vô bất lợi;
Động võng phất tàng.
Khả dĩ nhậm trọng trí viễn;
Ư yên thụ chỉ phát tường.
Hưởng quân tử chi bị phúc, hoàn quân tử chi lệnh danh, Thiên bảo: “Tỉ nhĩ tiển cốc[2]”;
Cư thiên hạ chi quảng cư, hành thiên hạ chi đạt đạo[3], Hồng phạm: “Thân kỳ khang cường[4]”.

Thí quan:
Tái chư giản biên;
Túc vi giám giới.
Khuất Nguyên[5], Giới Tử[6], cô phẫn tự tường;
Linh Vận[7], Hy Chi[8], khinh đầu thủ bại.
Quách Phần Dương[9] an nghĩa mệnh, trượng trung tín, thiếu quý, lão toàn;
Lã Bình Chương[10] xử đại sự bất hồ đồ, quốc an, gia thái.

Cư ngô ngữ tử:
Vi thần bất dị;
Hành lộ thậm nan.
Đầu giác tuy vân ngang tủng;
Mấn mao hốt dĩ thương ban.
Thượng hạ vô thường, tiến thoái vô hằng, thả yếu cần hành bất tức;
Tây nam vi di, đông bắc vi hiểm, tất tư thuận xử nãi an.

Thâm tư tai:
Thái Thanh nhất chung;
Đại yến tam tước.
Tu giác ngộ ư vị minh;
Vật trầm hàm nhi tự ngược.
Thời suy di nhi biến hoá, luân đàn tuỳ dữ vãng lai;
Cương đoản chiết nhu cửu trường, xỉ thiệt khởi tranh cường nhược.
Dư cái luận tính mệnh chi nhất đoan,
Nhược toàn thể xứ thượng do thương hải chi nhất thược!

Bản dịch của Ngô Linh Ngọc

Khi đóng khi mở,
Lo gì, nghĩ gì?
Bởi hun đúc là do mệnh,
Há trí, sức làm được chi?
Lòng dạ thảnh thơi, tuân theo đạo không nghiêng, không ngả;
Cao xanh soi rọi, thuận lẽ trời không biết, không hay.

Trời là như thế nào?
Mênh mông, cao thẳm.
Mây bay, mưa dội, hình thảy trôi đi;
Tháng lại, ngày qua, chút không ngừng lặng.
Máy huyền vi xoay vần hun đúc, khi thảm ắt muôn loài đều thảm, lúc thư thì vạn vật đều thư;
Đạo phát sinh từ chỗ tự nhiên, sắc đen thì muôn thuở vẫn đen, màu trắng ắt muôn đời vẫn trắng.

Vì sao gọi là “thiên quân”?
“Đài thiêng” trong lắng,
“Nhà trắng” sáng trưng.
Không tư lợi, chấp nê, vị kỷ,
Biết cứng mềm, hiểu lẽ biến thông.
Đời dùng thì làm, đời bỏ thì về ẩn, ra hay ẩn, nói hay im, đều bởi hiểu thông thời vận;
Lời nói thì giữ tín, việc làm thì quyết xong, sống với chết, lo với sợ, chút không vướng bận trong lòng.

Bởi vậy nên người quân tử:
Biết cách giữ gìn,
Đắn đo trong dạ.
Ung dung mà đón niềm vui,
Phẳng lặng mà không lo sợ.
Kính cẩn thờ trên, như gió theo hổ, như mây theo rồng;
Sáng suốt giữ mình, không vướng vào gai, chẳng va vào đá.

Do đó mà:
Điều điều thuận lợi,
Việc việc thành công.
Có thể đi xa, mang nặng,
Nhờ đó phúc lộc, hanh thông.
Phúc, quân tử hưởng trọn mức, danh quân tử vẹn trong, thơ Thiên bảo nói: “Cho người phúc lộc”;
Ở chỗ rộng trong thiên hạ, đi đường lớn trong thiên hạ, thiên Hồng phạm nói: “Thân được khang cường”.

Thử xem sử sách,
Cũng đủ làm gương.
Khuất Nguyên, Giới Tử, ôm hận, hại mình;
Linh Vận, Hy Chi, làm liều, thất bại.
Quách Phần Dương, an nghĩa mệnh, giữ trung tín, trẻ hiển vinh, già được vẹn toàn;
Lã tể tướng, xét việc lớn chẳng hồ đồ, nước yên ổn, nhà thêm khang thái.

Này, ta nói cho ngươi biết:
Làm bầy tôi chẳng dễ,
Đi đường rất khó khăn.
Đầu óc tuy to lớn,
Râu tóc thoắt điểm ban…
Trên dưới không thường, tiến lui chẳng định, hãy cốt siêng làm chẳng nghỉ;
Tây nam bằng phẳng, đông bắc hiểm nghèo, ắt nên thuận lẽ mới an!

Cần nghĩ cho sâu vậy thay!
Một tiếng chuông cung Thái Thanh,
Ba chén rượu cuộc đại yến.
Sớm thấy ra từ lúc tối mờ,
Chớ say đắm mà mua tai biến.
Lựa theo thời mà biến hoá, bánh xe, hòn đạn, tuỳ lúc tới lui;
Cứng chóng gãy, mềm bền lâu, lưỡi nọ, răng kia, tranh cường hão chuyện!
Ta mới bàn qua về tính với mệnh mà thôi,
Đối với toàn thể, chỉ là một vốc nước con trong biển!
Bài phú này được Ngô Thì Nhậm sáng tác trong thời kỳ Lê - Trịnh.

Thiên quân chỉ trái tim. Sách Tuân Tử: “Tâm cư trung hư, dĩ trị ngũ quan phù vị chi thiên quân” (Tim ở giữa và rỗng, để trị ngũ quan nên gọi là thiên quân).

[1] Sách Luận ngữ, thiên Tử hãn: “Vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã” (Chớ làm theo ý riêng mình, chớ cố chấp, chớ cố định, chớ tư ý, ích kỷ).
[2] Thơ Thiên bảo trong thiên Tiểu nhã, Kinh thi có câu: “Tỉ nhĩ tiễn cốc” (Cho người phúc lộc).
[3] Sách Mạnh Tử: “Cư thiên hạ chi quảng cư, lập thiên hạ chi chính lộ, hành thiên hạ chi đạt đạo, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vi đại trượng phu” (Ở cái nhà rộng trong thiên hạ, đứng ở lối chính trong thiên hạ, đi trên đường lớn trong thiên hạ, giàu sang không dâm dật, nghèo hèn không đổi dời, uy vũ không khuất phục, đó là kẻ đại trượng phu). Quảng cư, chính lộ, đạt đạo nói ở đây, tức là nhân, nghĩa và đạo thường.
[4] Thiên Hồng phạm trong Kinh thư có câu: “Thân kỷ khang cường”.
[5] Người đời Chiến Quốc, là một trung thần có lòng yêu nước thương dân, nhưng Sở Hoài vương vì nghe lời gièm pha của bọn gian thần, nên đã đuổi ông ra ở Giang Nam, về sau ông phẫn chí, nhảy xuống sông Mịch La mà chết.
[6] Giới Tử Thôi, người nước Tần đời Xuân Thu, theo công tử Trùng Nhĩ đi lưu vong 20 năm, về sau Trùng Nhĩ về làm vua nước Tấn, tức Tấn Văn công, lúc thưởng công, Giới Tử Thôi bị bỏ quên, ông ta bèn đi ở ẩn tại núi Miên Sơn, rồi chết ở đó. Ở đây ý tác giả nói Khuất Nguyên, Giới Tử cố chấp, tự mình hại mình.
[7] Tạ Linh Vận, người đời Nam triều, cháu của Tạ Huyền, làm quan Nội sử Lâm Xuyên, sau đổi sang Quảng Châu, có ý mưu phản, bị giết.
[8] Vương Hy Chi, người đời Tấn, làm quan đến Hữu quân tướng quân, về sau bị can vào vụ Vương Luân mưu phản, rồi bị hại. Ở đây ý tác giả nói Hy Chi, Linh Vận làm theo ý riêng mình, vội vàng khinh xuất, nên mang vạ vào thân.
[9] Tức Quách Tử Nghi, người đời Đường, có công dẹp loạn An Lộc Sơn, được phong Phần Dương vương.
[10] Tức Lã Đoan, người đời Tống, giữ chức Hộ bộ thị lang bình chương sự. Tống Thái Tông phong làm Tể tướng, có người nói: Lã Đoan là người hồ đồ. Tống Thái tông nói: ông ta chỉ hồ đồ việc nhỏ, không hồ đồ việc lớn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Ngô Thì Nhậm » Thiên quân thái nhiên phú