21/12/2024 22:04Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Từ phẩm; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi Vanachi vào 09/07/2005 23:52
Nguyên tác
秋到邊城角聲哀,
烽火照高臺。
悲歌擊筑,
憑高酹酒,
此興悠哉!
多情誰似南山月,
特地暮雲開。
灞橋煙柳,
曲江池館,
應待人來。
Phiên âm
Thu đáo biên thành giốc thanh ai,
Phong hoả chiếu cao đài.
Bi ca kích trúc,
Bằng cao lỗi tửu,
Thử hứng du tai!
Đa tình thuỳ tự Nam sơn nguyệt,
Đặc địa mộ vân khai.
Bá kiều[1] yên liễu,
Khúc giang[2] trì quán,
Ứng đãi nhân lai.Bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo
Thu tới biên thành não tiếng còi,
Đài cao khói lửa soi.
Hát buồn gõ trúc,
Lên cao tưới rượu,
Hứng nọ xa vời.
Trăng đỉnh núi Nam đa tình mấy,
Vén mây đêm sáng ngời.
Rặng liễu Bá Kiều,
Đình hồ sông Khúc,
Riêng vẫn đợi người.
Từ điệu "Thu ba mị" còn có tên "Nhãn nhi mị", lấy từ chữ trong "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị: "Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh, Lục cung phấn đại vô nhan sắc" 回眸一笑百媚生,六宮粉黛無顏色 (Một liếc mắt một tiếng cười có trăm vẻ yêu, Những vẻ phấn son của sáu cung so ra cũng như không có nhan sắc).
[1] Một cây cầu ở trên sông Bá, phía đông thành Trường An, trồng nhiều liễu. Xưa người ta thường tiễn nhau ra đến đây, bẻ liễu tặng nhau để đưa tiễn, vì thế mà cầu này tượng trưng cho sự ly biệt.
[2] Một cái đầm ở phía đông Trường An, phong cảnh rất đẹp. Lúc này tác giả đang đi theo việc quân ở Hán Trung, có ý nói mong mỏi lấy lại Trung Nguyên đã bị giặc Kim chiếm.