21/12/2024 18:33Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi Vanachi vào 06/02/2019 00:30
Nguyên tác
天上驅雲出火輪,
東窗隱几獨傷神。
能如頑石何知苦,
衹是良心尚未泯。
愚蛇承涎終失恃,
驕蚊巢睫併欺人。
清風何處晚然至,
翰羽飄飄欲出塵。
Phiên âm
Thiên thượng khu vân xuất hoả luân,
Đông song ẩn kỷ độc thương thần.
Năng như ngoan thạch hà tri khổ,
Kỳ thị lương tâm thượng vị dân.
Ngu sá (xà)[1] thừa diên chung thất thị,
Kiêu văn sào tiệp[2] tính khi nhân.
Thanh phong hà xứ vãn nhiên chí,
Hàn vũ phiêu phiêu dục xuất trần.Dịch nghĩa
Trên trời xua sạch mây cho vầng lửa ló ra
Tựa ghế bên cửa sổ hướng đông riêng cảm thấy trong mình khó chịu
Nếu trơ được như đá thì biết gì là khổ
Nhưng vì còn chút lương tâm chưa đến nỗi mất
Cho sứa là ngu bám lấy nó mà ăn dãi rốt cuộc rồi cũng mất nhờ
Coi thường con muỗi làm tổ trên mi mắt nó mà sống chỉ là chuyện lừa người thôi
Bỗng nhiên làn gió chiều từ đâu đưa đến
Làm cho mình như mọc lông cánh muốn bay ra khỏi cõi trầnBản dịch của Đỗ Đình Tuân
Không một gợn mây vầng lửa lên
Cửa đông ngồi tựa thấy không yên
Giá trơ như đá thì đâu khổ
Còn chút lương tâm hoá chịu phiền
Coi sứa là ngu trò dại dột
Sống trên mắt muỗi chuyện huyên thuyên
Bỗng nhiên làn gió chiều đâu đến
Thêm cánh cho mình vút cõi tiên
Rút từ Quế Sơn tam nguyên thi tập (A.3160).
[1] Cho sứa là ngu. Loài sứa bể không có mắt, lũ tôm bám vào để ăn dãi nó. Khi sứa bị người bắt thì tôm cũng hết chỗ nương tựa.
[2] Làm tổ trên mi mắt muỗi. Theo sách Án Tử Xuân Thu, một hôm Tề Cảnh Công hỏi Án Tử trong thiên hạ vật gì nhỏ nhất, Án Tử trả lời “Bể đông có loại trùng làm tổ ở mi mắt con muỗi, hai lần đẻ, hai lần bay mà muỗi không hề giật mình. Thần không biết tên nó là gì, chỉ thấy ông chài ở bể gọi nó là tiêu minh.“