22/12/2024 12:08Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Trung Đường
Đăng bởi Vanachi vào 01/07/2005 23:09
Nguyên tác
一封朝奏九重天,
夕貶潮州路八千。
欲為聖明除弊事,
肯將衰朽惜殘年。
雲橫秦嶺家何在,
雪擁藍關馬不前。
知汝遠來應有意,
好收吾骨瘴江邊。
Phiên âm
Nhất phong triêu tấu[1] cửu trùng thiên,
Tịch biếm Triều Châu[2] lộ bát thiên.
Dục vị thánh minh trừ tệ sự,
Khẳng tương suy hủ tích tàn niên.
Vân hoành Tần Lĩnh[3] gia hà tại,
Tuyết ủng Lam Quan[4] mã bất tiền.
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý,
Hảo thu ngô cốt chướng giang[5] biên.Dịch nghĩa
Ban sáng vừa mới dâng lên nhà vua một tờ tấu chương,
Buổi chiều đã bị biếm đi Triều Châu xa tám ngàn dặm.
Lòng chỉ muốn vì thánh triều sáng suốt trừ đi những sự tệ hại,
Dám đâu tiếc nuối tấm thân nhiều bệnh tật vào lúc cuối đời này.
Mây giăng ngang Tần Lĩnh nhà của ta ở nơi đâu,
Tuyết phủ kín Lam Quan ngựa không tiến lên được nữa.
Cháu từ xa tới đây ta biết chắc là có ý,
Muốn thu nắm xương tàn của ta bên bờ sông đầy chướng khí này.Bản dịch của Lý Tứ @www.maihoatrang.com
Sáng dâng tấu sớ trước thềm hoa
Chiều biếm Triều Châu vạn dặm xa
Thánh chúa những mong từ việc hại
Bệnh thần nào dám tiếc thân già
Mây che Tần Lĩnh nhà khôn thấy
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua
Cháu đến từ xa chừng có ý
Sông này thu nhặt nắm xương ta
Tương là Hàn Tương, cháu của tác giả. Truyền thuyết cho rằng Hàn Tương là một trong bát tiên. Liệt tiên truyện kể rằng nhân một bữa tiệc, Hàn Dũ muốn uống trà sen nhưng đang mùa đông nên chẳng tìm đâu ra sen. Hàn Tương lấy một mảnh lụa phủ lên chiếc lọ cắm hoa, phút chốc từ lọ nở ra mấy đoá sen, trên cánh có hai câu luận của bài thơ này. Hàn Dũ lúc bấy giờ không hiểu, mãi khi bị đày đến Lam Quan mới hiểu ra ý nghĩa.
[1] Hiến Tông muốn rước xương Phật vào chùa thờ, gây ra cảnh hết sức hỗn loạn ở kinh đô. Hàn Dũ dâng sớ can gián. Bài Gián nghinh Phật cốt biểu nổi tiếng một thời của ông chính là tờ tấu chương nói đến trong câu này.
[2] Một số bản chép là “Triều Dương” 潮陽.
[3] Tần Lĩnh là tên môt dãy núi nằm trong tỉnh Quảng Tây. Truyện Kiều: “Đoái trông muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”.
[4] Cửa ải ở Thiểm Tây.
[5] Một số dịch giả cho rằng hai chữ “chướng giang” trong câu này có nghĩa là con sông đầy chướng khí và cho rằng đây là con sông Hàn ở Triều Châu. Nhưng cũng có vài người lại hiểu “chướng giang” là con sông tên là Chướng.