24/01/2025 03:43Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Lụt Bất Quá

Tác giả: Phan Thanh

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi tôn tiền tử vào 23/12/2018 03:06

 

Thuở vua Tự Đức trị vì
Thái hoà tự Võ[1] khác gì Đường Ngu[2]
Nơi nơi kích nhưỡng[3] ca cù
Thái sơn bàn thạch cơ đồ vững an
Tuy loài hải thuỷ sơn man
Cũng mến oai đức thê bằng[4] lai qui
Cớ sao vận hội bất kỳ
Năm ba mươi mốt can chi Mậu Dần[5]
Tai trời khắp xuống chúng dân
Ba huyện[6] Quảng Ngãi mười phần tả tơi
Nắng cho năm bảy tháng trời
Lúa lang bắp đậu cháy phơi cánh đồng
Tháng ba bị háp[7] đã xong
Lúa nhồng, bát ngoạt làm đòng cũng khô
Rủ nhau đào giếng vét hồ
Kẻ múc người tát, hụi hô đêm ngày
Bờ xe[8] bờ đập cạn bày
Đất gò, đất thổ chẳng cày đám mô
Ngoài kinh chỉ dụ truyền vô
Dạy quan thiết lập Võ vu[9] mà cầu
Tỉnh cùng phủ huyện đâu đâu
Vái lạy các miểu mà cầu cho dân
Ba ngày nhập đảo một lần
Kể năm bảy thứ quỷ thần không linh
Phải lên Thiên Ấn cầu kinh[10]
Thấy Ông Di Lặc làm thinh cười hoài
Ông Đốc[11] nằm đất ăn chay
Quỳ hương niệm Phật nắng hoài mà thôi
Thầy tu ăn hết chuối rồi
Quan bị giáng phạt sợ thôi kinh hồn
Lại truyền cho khắp xã, thôn
Đảo cầu trống phách chiêng ầm vang tai
Thời trời cũng cứ nắng hoài
Giá lương, giá lúa càng ngày càng cao
Tháng năm tháng sáu chưa sao
Hạ tuần tháng bảy lương Tàu[12] mười quan
Ai ai nghe nói kinh hoàng
Dầu nhà có bạc, có vàng cũng nao
Muôn dân đói khát lao đao
Cả trong ba huyện sáu xứ nào cũng cay
Chức việc rủ đậu tiền tay
Kẻ nhiều người ít trợ rày cho dân
Mảng lo những kẻ cùng bần
Ai ngờ chức việc lần lần cũng bê
Bán cho đến hủ, đến ghè
Lãnh đường, lãnh mật, lãnh chè[13] mùa sau
Ngoài đồng chẳng có cọng rau
Củ nần, củ chóc cũng đào mà ăn
Đổ mèo, đổ rựa, đổ sen
Củ cun, củ cóc[14] cũng mằn cho ra
Nói chi trái gáo, trái da
An hết đu đủ làm qua bánh dầu
Kẻ này[15] cầm cố bò trâu
Người lạy bán ruộng, người cầu bán con
Lòng hằng[16] quân tử hãy còn
Tiểu nhân túng biến ra tuồng làm nhăng[17]
Đứa thời bẻ mít bẻ măng
Đứa thời giựt áo, giựt khăn, giựt quần
Ra đường cướp gánh, cướp bưng
Vào nhà xách chậu, xách nừng, xách nia
Xin[18] đâu cũng giọng sân si[19]
Nhà nào cho ít nó thì hăm he
Ban đầu đốt miểu, đốt tre
Lần lần đốt ngõ, sau nghe đốt nhà
Mỗi đêm lửa cháy sáng loà
Mõ ống[20] như nhái kêu la ỏi trời
Tuần phòng trát sức khắp nơi
Càng canh càng nhặt, càng vời[21] nhiễu nhương
Tỉnh thành biểu tấu triều đường
Sai quan Đoàn sứ[22] thị lang trả về
Khâm tuân hoàng thượng châu phê
Tuỳ nghi điều tể[23] tính bề cho an
Phóng bằng[24] cử, tú hưu quan
Khuyên quyên tiền túc[25] cứu hoang[26] cho cần[27]
Các thầy thân vãng[28] xã dân
Vưng lời chỉ dụ phân trần thiệt hơn
Nước nhà dễ muốn bòn dân,
Gặp khi cơ cần[29] phú bần tương tư[30]
Các người dù có của dư
Cũng nhờ chúng nó buổi xưa cấy cầy
Giúp nhau khi đói mới hay
Nói chi bù cặp[31] những ngày ấm no
Các ngươi biết nghĩ biết lo
Cũng nên nhiều ít trợ cho dân tình
Huống chi có chỉ triều đình
Vua ngài không phụ ơn mình ở đâu
Sáu mươi[32] chuẩn miễn[33] binh diêu[34]
Phân đầu[35] thâu liễm ít nhiều sẽ hay
Ai mà quyên xuất tiền tay
Tám trăm một trật sắc rày Vua ban
Sáu trăm tùng cửu phẩm quan
Dư hữu ứng thí cho hàm văn giai[36]
Người nào so vắn tính dài
Có ý sắc lận giải ngay tỉnh đường
Có người cũng sợ phép quan
Có người hiếu nghĩa ráng gan mà làm
Kẻ xin ta tiểu[37] phẩm hàm
Người xin tùng, chánh[38] quan Khâm cũng ừ
Bao nhiêu tiền túc tích chừ[39]
Chiếu theo tổng lý khai tờ mà phân
Thứ, thậm[40] nhị hạng bần dân
Nửa chẩn, nửa thại[41] quân ân khắp đều
Hãy còn những đứa vô liêu[42]
Dạo xin làng xóm, cướp phiêu[43] dân lành
Bảng treo các chợ rành rành
An mày đau ốm thiệt tình hãy cho
Nhược bằng những kẻ côn đồ
Lập hành nả giải[44] chớ cho lăng loàn
Đóng năm bảy đứa một gian[45]
Kéo đi cả lũ như đàn kênh kênh
Mỗi chiều mỗi dắt cổ lên
Đánh cho thúi thịt lại bền[46] câu giam
Loài gian mựa tiếng ghê hồn[47]
Đam[48] nhau trốn núp âm thầm nín hơi
Phút đâu chuyển động cơ trời
Mười bốn tháng tám khắp nơi bà đà[49]
Bốn phương thấy trận mưa sa
Mừng như cha mẹ thác mà sống nay
Lăng xăng kẻ cuốc, người cày
Đám gieo, đám ma trời nay trả mùa
Nhiều nơi bàn định hơn thua
Ta tỉa bắp thẻ[50] bắp mùa mau ăn
Làng trên xã dưới giăng giăng[51]
[52] nào nà nấy tốt bằng đổ phân
Thấy cây thấy lá đương mừng
Ai cũng kể chắc chạy lần mà ăn[53]
Có tiền mua cũng khó khăn
Hay đâu tháng chín lộn xen tiền Tàu[54]
Nhà nghèo chí liễn[55] nhà giàu
Lỗ to, lỗ nhỏ[56] cãi nhau tối ngày
Một hai kẻ có còn may
Kêu trời khóc đất thảm thay nhà nghèo
Lãnh công lãnh chẩn bao nhiêu
Đem mua gạo bắp chợ đều không ăn
Xỉa ra nó sáng nó dằn
Mủng tràng[57] đậy lại vùng vằng ném ra
Chợ nào có đánh có la[58]
Nó bán tiền[59] gạo đáng ba mươi đồng
Có người xách mủng về không
Liu chiu lít chít với chồng với con
Mấy đồng tiền điếu[60] hãy còn
Để đó mà ghó chồng con ăn gì
Bao giờ chỉ nghị có về
An mấy ăn mấy một bề cho xong
Tháng mười đương tạnh khi không
Nửa đêm mười bốn đùng đùng gió mưa
Mười rằm mười sáu còn vừa
Sang ngày mười bảy lụt mưa ba đào
Trên nguồn, dưới biển cũng đào[61]
Chỗ thấp ngập nóc, chỗ cao lên dàn[62]
Um sùm trống mõ la làng
Bò ồ, heo éc kêu vang tứ bề
Kẻ chun khu đĩ[63] kêu ghe
Người trèo lên nóc kêu bè đưa đi
Giữ nhau cho khỏi lưu ly
Bò trâu nhà cửa trôi gì nó trôi
Gia tài khí mảnh[64] vô hồi
Nhân đinh[65] súc vật kể đôi mươi ngàn
Dưới sông kẻ dọc người ngang
Trên bờ chiu chít thở than bồi hồi
Ai mà thác mất đã rồi
Ai còn sống lại cũng ngồi nhịn trong[66]
Đói mà còn sống cũng xong
Thương người trôi nổi dưới dòng nước sâu
Kẻ kêu khóc vợ con đâu
Người thảm cha mẹ, người rầu anh em
Sang ngày mười tám nửa đêm
Mở[67] ba cửa biển[68] gió êm nước ròng
Ai mà thác mất đã xong
Ai còn sống lại trong lòng xót xa
Về coi nát cửa hại nhà
Gạo bắp trôi hết, heo gà cũng không
Đời cha chí liễn[55] đời ông
Lụt sao cá biển lên đồng sinh con
Trên nguồn lở núi, lở non
Đồng nội sanh lý chẳng còn vật chi
Lang trôi, bắp ngã li bì
Đổ khô, mạ dập lấy gì nuôi nhau
Lâu nay khó cậy nhà giàu
Từ nay đói khát ốm đau ai giùm
Nơi nơi than khóc um sùm
Có đất có ruộng cố cầm cho ai
Tỉnh thành biểu tấu bị tai
Nhứt diện phái[69] khám nhà, người, bò, trâu
Nhà ai sở bị phiêu lưu[70]
Hạng thậm[71] thì phát mỗi đầu hai quan
Nhà ai sở bị thường thường
Hạng thứ thì phát một quan hai tiền
Nhơn đinh súc vật cũng biên
Còn chờ ấn chỉ[72] truất tiền bao nhiêu
Ơn vua nhờ cũng đã nhiều
Nắng rồi lại lụt của đâu cho thường
Triều đình bách kế thiên phương[73]
Sao cho lê thứ[74] tiện đường sinh nhai (toại)
Tuy quan điều tể[75] có tài
Tai trời, vận nước thì ngài biết sao
Lần hồi bữa cháo, bữa rau
Chầy chầy may đặng bữa nào sẽ hay
Chữ rằng: Bĩ cực thái lai[76]
Có đâu trời nỡ hại hoài dân ta
Quê mùa mấy chữ nôm na
Đủ biên sự tích để mà nghe chung
Bài về này do thầy giáo Huỳnh Châm sao lục và chú giải, được in trong tập Sưu tầm văn học bình dân tỉnh Quảng Ngãi của lớp 10c Trung học Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngãi, niên khoá 1970-71.

Bài vè này trình bày một thiên tai liên quan đến một vài biến cố lịch sử. Thiên tai này có tên là lụt Bất Quá nguyên nhân do năm Tự Đức thứ 31 (1878) lụt rất lớn. Lúc đầu nước vào vườn mọi người đều bảo “bất quá đến sân là cùng”. Khi nước đến sân, “bảo là bất quá vào nhà”. Và người ta cứ nói “bất quá” cho nên trận lụt có tên là lụt Bất Quá.

[1] Tức Thế Tôn Hiếu Võ (1739-1766), đến đời Hiếu Võ họ Nguyễn mới bắt đầu xưng vương.
[2] Hai đời thịnh tri nhất của các triều đại Trung Quốc.
[3] Đánh nhịp để khen ngợi.
[4] Thê: là trèo thang, tức trèo núi; băng: vượt nước tức vượt biển.
[5] Năm Tự Đức thứ 31 tức năm Mậu Dần 1878.
[6] Ba huyện là Bình Sơn, Mộ Đức, Tư Nghĩa.
[7] Lúa bị nắng cháy một phần.
[8] Bờ xe nước.
[9] Đàn cầu mưa.
[10] Lệnh của kinh đô Huế.
[11] Trường thời bấy giờ dạy chữ Hán.
[12] Lúa gạo do Tàu bán. Lúc bấy giờ mọi dịch vụ buôn bán đều do người Tàu, lúa gạo cũng do người Tàu chở đi bán.
[13] Nước chè hai, tức nước mía dùng làm đường.
[14] Những loại củ dại ngoài đồng có thể ăn được.
[15] Nài nỉ.
[16] Hằng tâm.
[17] Làm bậy.
[18] Ăn xin.
[19] La lối.
[20] Mõ làm bằng ống tre.
[21] Nhiều.
[22] Quan chánh sứ họ Đoàn tức Đoàn Đình Nhàn.
[23] Điều hoà các vị thuốc với nhau.
[24] Cấp bằng bừa cho những người không đậu nhưng những bằng này không có giá trị.
[25] Gạo.
[26] Cứu đói.
[27] Siêng năng.
[28] Đích thân đi viếng.
[29] Cơ: đói nhưng còn có rau mà ăn. Cần: đói không có rau mà ăn.
[30] Giúp đỡ lẫn nhau.
[31] Giúp đỡ.
[32] Quan tiền.
[33] Chấp nhận cho khó.
[34] Việc binh.
[35] Chia đầu người.
[36] Người nào có đi thi thì cho hàm văn giai lớn hơn hàm võ.
[37] Ít nhiều.
[38] Cùng một ngạch nhưng có hai trật: chánh (lớn hơn), tùng (nhỏ hơn).
[39] Xưa nay.
[40] Thứ: hạng vừa; thậm: hạng quá.
[41] Chẩn: cho luôn; thại: cho mượn.
[42] Du đãng.
[43] Trốn tránh.
[44] Phải lập danh sách tróc nả bắt giải.
[45] Một ngăn của cái gông.
[46] Lâu.
[47] Nghe tiếng.
[48] Đem.
[49] Mưa to lắm.
[50] Một loại bắp nhỏ trái hai tháng rưỡi là thu hoạch.
[51] Đâu cũng có.
[52] Khu đất trũng rộng.
[53] Kiếm ăn lần hồi.
[54] Tiền giả do Tàu mang vào Việt Nam tiêu, mỏng, lỗ to hơn tiền Việt. Tên Huỳnh Quang lái buôn chủ mưu bị tử hình.
[55] Cho đến.
[56] Vì tiền giả lỗ to.
[57] Làm bằng nan, hình tròn dẹp, dùng để đậy.
[58] Về sau làng xã tự động ra lệnh cho bạn hàng phải ăn tiền giả. Bà Từ Dũ phải quy định đồng tiền giả này ăn ba đồng (trước tiền giả này cũng ăn sáu đồng).
[59] Một tiền là 60 đồng.
[60] Tiền điếu là tiền lớn ăn sáu đồng. Tiền giả này cũng là loại tiền điếu.
[61] Nhiều, đầy.
[62] Rầm nhà bằng tre.
[63] Phần trống ở hai bên nóc nhà.
[64] Vật liệu, đồ đạc.
[65] Người.
[66] Nhịn đói.
[67] Cửa sông bị cát lấp, bây giờ lụt lớn khai thông.
[68] Đó là ba cửa: cửa Thế Cồn và cửa Sa Kỳ (Bình Sơn), cửa Cổ Luỹ (Tư Nghĩa).
[69] Cho người về khám nhà, người, bò, trâu.
[70] Trôi.
[71] Quá.
[72] Lệnh vua cho.
[73] Trăm phương nghìn kế.
[74] Dân đen.
[75] Tức quan Đoàn Đình Nhàn.
[76] Thời vận xoay chuyển, hết xấu lại tốt.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phan Thanh » Lụt Bất Quá