21/12/2024 22:44Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Từ phẩm; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi Vanachi vào 10/07/2005 00:08
Nguyên tác
一竿風月,
一蓑煙雨,
家在釣臺西住。
賣魚生怕近城門,
況肯到紅塵深處。
潮生理櫂,
潮平繫纜,
潮落浩歌歸去。
時人錯把比嚴光,
我自是無名漁父。
Phiên âm
Nhất can phong nguyệt,
Nhất thoa yên vũ,
Gia tại điếu đài tây trú.
Mại ngư sinh phạ cận thành môn,
Huống khẳng đáo hồng trần thâm xứ.
Triều sinh lý trạo,
Triều bình hệ lãm,
Triều lạc hạo ca quy khứ.
Thời nhân thác bả tỷ Nghiêm Quang[1],
Ngã tự thị vô danh ngư phủ.Dịch nghĩa
Một cần câu trăng gió,
Một áo tơi khói mưa,
Trú tại phía tây đài câu.
Bán cá nhưng sợ lại gần thành,
Huống gì đến chốn trần ai đầy bụi.
Triều lên sửa mái chèo,
Triều bằng cho thuyền neo,
Triều xuống ca lớn quay về.
Người đời nay đều lầm sánh ta với Nghiêm Quang,
Nhưng ta chỉ là lão chài vô danh mà thôi.Bản dịch của Như Quy
Một cần phong nguyệt,
Áo tơi mây khói,
Nhà ở xóm tây chài lưới.
Bán cá còn sợ tới bên thành,
Nói gì nơi phồn hoa đầy bụi.
Triều lên sửa mái,
Triều bình thuyền buộc,
Triều xuống hát ngao rong ruổi.
Người nay lầm sánh với Nghiêm Quang,
Ta, ngư phủ không tên không tuổi.
[1] Hay Nghiêm Lăng 嚴陵, tự Tử Lăng 子陵, người Cối Kê thời Hán Mạt, bạn cùng học với Hán Quang Vũ Đế (Lưu Tú 劉秀). Ông là người rất bình đạm, trước giúp Lưu Tú khởi binh, đến khi Lưu Tú tức vị thì mai danh quy ẩn tại núi Phú Xuân (nay thuộc huyện Đồng Lư, tỉnh Chiết Giang), lấy câu cá làm vui. Người đời sau nhân đó gọi núi Phú Xuân là núi Nghiêm Lăng, chỗ hòn đá nơi ông hay ngồi câu cá bên bờ sông Phú Xuân gọi là Nghiêm Quang điếu đài.