23/01/2025 04:53Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi tôn tiền tử vào 02/05/2020 18:02
Nguyên tác
此老不知何處人,
遠來忽與我相親。
傾觴勸飲未談笑,
兀坐終朝無欠伸。
慘淡山河方舉目,
尋常溪壑亦容身。
此心莫問北南海,
二老遭逢亦夙因。
Phiên âm
Thử lão bất tri hà xứ nhân,
Viễn lai hốt dữ ngã tương thân.
Khuynh trường khuyến ẩm vị đàm tiếu,
Ngột toạ chung triêu vô khiếm thân.
Thảm đạm sơn hà phương cử mục,
Tầm thường khê hác diệc dung thân.
Thử tâm mạc vấn bắc nam hải,
Nhị lão tao phùng diệc túc nhân.Dịch nghĩa
Chẳng biết ông lão này người ở đâu,
Từ xa đến bỗng thân tình với ta.
Ta nghiêng chén mời uống mà ông chưa hề nói cười,
Chỉ ngồi lặng suốt ngày không cử động gì cả.
Hễ ngước mắt nhìn chỉ thấy non sông thảm đạm,
Cũng đành dung thân ở nơi khe hốc tầm thường.
Lòng này đã thế, chớ có hỏi chuyện nam, chuyện bắc,
Hai ông lão gặp nhau, âu cũng có duyên từ trước.Bản dịch của Trần Văn Nhĩ
Chẳng biết lão này xưa ở đâu,
Từ xa mới đến đã thân nhau.
Chén nghiêng mời uống, không lên tiếng,
Ngày tận ngồi yên chẳng gật đầu.
Ngước mắt non sông đều thảm đạm,
Nương thân khe hốc đã từ lâu.
Xin đừng hỏi chuyện biển nam bắc,
Duyên trước xui nên ta gặp nhau.
Rút từ Quế Sơn thi tập (A.469).