03/01/2025 10:57Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 08/11/2007 08:04
(NCTG) “Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: “Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay… Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!”, không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng?
Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâuĐến Leningrad vào năm 1925, chàng trai 18 tuổi từ thành phố bên sông Volga đã từng rất nổi tiếng, là “cái hy vọng” của nền Thi ca Xô-Viết trẻ như lời khẳng định của nhiều người tại Đại hội lần thứ I các nhà văn Xô-Viết. Tháng 4-1925, Ra biển!, bài thơ đầu tiên của Boris Kornilov được đăng tải và rất được khen ngợi. Ảnh hưởng khá sâu sắc phong cách Esenin, nhưng anh vẫn giữ được cho mình nét riêng không trộn lẫn. Đó là những câu thơ mang nhịp điệu khá gập ghềnh, đôi lúc trúc trắc, khó đọc. Thi phẩm nổi tiếng nhất thời đó của Kornilov là Bài ca chào đón (1931) được nhạc sĩ tài danh Shostakovich (cũng là nhạc sĩ yêu thích nhất của Olga) phổ nhạc trong bộ phim Người đón chờ (1932):
rằng anh đã qua đời, anh hãy tin em nhé
Ranh giới giữa sáng tâm và loạn trí
em bây giờ thường nhìn thấu được ra
(Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu, 1938*)
Ban mai đón ta bằng hơi giáSuốt hơn hai thập niên, cả nước hát bài ca ấy, ngợi ca nhịp điệu làm việc sôi nổi của một ngày mới trên đất nước Xô-viết. Có ai ngờ, chờ đón tác giả của nó lại là một ngày đen tối! Boris trở thành một trong những cái đích ngắm của nạn bạo hành thời Stalin sau khi anh viết bài thơ “Ngày cuối cùng của Kirov” (3). Vì bài thơ này, anh bị khép vào tội “phản cách mạng”. Năm 1936, Kornilov bị khai trừ khỏi Hội nhà văn Xô-viết. Tháng 3-1937, nhà thơ bị bắt. Thi phẩm cuối cùng của anh được đăng là những vần thơ về A. Pushkin. 20-2-1938, nhà thơ vĩnh viễn không bao giờ còn được làm thơ nữa: Boris Kornilov bị xử hình. (4)
Dòng sông đón ta bằng gió xa
Cô gái tóc quăn hỡi, cớ sao em vẫn
Không vui nghe tiếng còi tàu?
Đừng ngủ nữa, tóc quăn ơi, hãy dậy mau
Những đội thợ đã vào phân xưởng
Đất nước bừng dậy cùng vinh quang
Đón chào ngày mới
(Olga có mái tóc xoăn vàng óng rất đẹp và ngay ở bài thơ mang âm hưởng ngợi ca cuộc sống mới này, nàng vẫn hiển hiện bên chàng!)
Người thương ơi, em tìm được ai rồi?Có một điều thú vị là, cho dù bài thơ được viết từ năm 1935, nhưng nhiều hình ảnh nhắc nhở về cô đoàn viên Olga trẻ trung, trong sáng như thiên thần mà Boris gọi là “người vợ có đôi cánh trắng”, cũng như những nơi nàng bước chân qua trong trí tưởng tượng của anh - tất cả đều từng có thực trong cuộc đời của Olga sau này, hệt như một sự tiên tri, một điềm báo.
Mà ngân nga bài ca trong trẻo
Thủ thỉ tâm tình... thay thế cho kẻ
U uẩn một thời… là tôi
Em đã hôn ai rồi
Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát
Trên bến đợi, bên bờ đổ nát
Bên dốc đứng kia nơi ào ạt sông này
Anh chàng ấy sẽ cao thấp béo gầy?
Xuân tới chàng ta bao nhiêu tuổi?
Có dám bước đến đây đàng hoàng không bối rối
Giản dị cất tiếng chào tôi?
(Tôi từng có người thương, 1935)
Tìm về bờ dốc cũ xưaĐó cũng là một giấc mơ yêu:
Đối mặt tận cùng số mệnh
Hạnh phúc một thời chống chếnh
Là tôi... nhiều năm qua rồi
Biển xanh biếc tận chân trời
Hoàng hôn màu đồng ngút ngát
Hoa cỏ dưới chân xào xạc
Lại như... nhiều năm qua rồi
Cũng hương bạc hà khắp nơi
Cũng tiếng én kêu não ruột
Làm sao lấy lại, anh ơi
Những gì thân thương đã mất?
(Cánh én bên bờ dốc đứng, 1940)
Một bến đợi lạ lùng trong đêm tối cuối trờiPhải chăng, nàng Olga năm nào và mối tình say đắm đầu tiên vẫn thấp thoáng sống dậy trong suốt cuộc đời gian truân của nữ sĩ Berggoltz?
Lửa sáng trên bờ, lửa ở sâu đáy nước
Ai đó tôi không quen đứng chờ đây từ trước
Mà từ xa tôi cũng có thể nhận ra
Chỉ một phút nữa thôi tôi sẽ nghe thấy người ta:
“Em đây rồi. Anh đến với em, em có biết?”
Phút đầu tiên tôi không thốt nên lời gì hết
Chỉ chìa tay đón số phận của mình...
(Lại một mình đơn độc lên đường, trích Chùm thơ về sông Đông – sông Volga, 1950)
Em lấy được anh của cuộc đời“Mãi mãi” – từ này tưởng chừng dễ nói ra giữa những người đang yêu, cũng dễ trở thành là “đầu môi chót lưỡi”. Nhưng với Olga, đến cuối đời, bà đã một lần nữa nhắc đến người chồng thứ hai của mình với từ “mãi mãi”. Bà luôn cảm thấy mình là “người vợ goá” của ông, kể cả khi bà đang hạnh phúc với mối tình thứ ba, mối tình cuối đời:
Như tia lửa bắn ra từ đá cuội
Để rồi chẳng chia rời,
Để rồi anh yêu em mãi mãi.
(Em lấy được anh của cuộc đời, 1936)
Hôm nay đây em đã ngoái nhìn.Năm 1926, Olga Berggoltz theo học khoá nghiên cứu Lịch sử nghệ thuật và năm 1927, bà được tuyển vào học ngành báo chí khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Ở đó, sau khi chia tay với Kornilov năm 1930, bà gặp Nikolai Molchanov (1909-1942) và đi bước nữa cùng ông. Buổi đầu bày tỏ tình yêu giữa đôi trai gái cũng vẫn xúc động không khác gì lần yêu đầu: một buổi sớm mai trên con đường dọc bờ sông vắng thưa người qua lại, không khí nao niết mùi hương toả ra từ những rặng thông, tiếng hải hâu kêu chao chác từ xa… thấp thoáng cánh trắng dập dềnh phía bầu trời ửng đỏ của rạng đông. Cảnh tượng ấy đã chứng kiến mối tình “mãi mãi” của Olga Berggoltz và Nikolai Molchanov. Hai con người trẻ tuổi cùng làm việc miệt mài bên nhau ở Alma-Ata (Kazakhstan) - khi ấy Olga là phóng viên báo Thảo nguyên Xô-viết, cùng chiến đấu trong vòng phong toả của phát-xít Đức ở Leningrad và cùng chung sức trong rất nhiều dự định.
Và bỗng thấy: hướng về mình từ lòng băng giá
Người bạn đời còn sống với đôi mắt có hồn rất lạ
Người duy nhất của em – mãi mãi, muôn đời
…
Là vợ người ta - với tất cả những ai đang sống
Với riêng chúng mình – em là vợ goá của anh.
(Ôi xin đừng ngoái lại phía sau, 1947)
Tình yêu của anh kỳ diệu vô chừng*
Khiến em phải ngẩng cao đầu và sống
(Ngày 29 tháng Giêng năm 1942)
Anh đi qua những trận chiến, trại tập trung Maidanek, địa ngục tối mò“Người chồng mới” mà Olga nhắc đến trong bài thơ trên là nhà ngôn ngữ học Georgi Makogonenko (1912-1986), người mà, không hiểu sao, sau này các nhà viết tiểu sử Olga thường tránh nhắc đến tên. Dường như người ta ngầm lên án ông về sự dằn vặt tâm hồn của Olga thể hiện trong các bài thơ viết về tình yêu cuối đời, về sự cô đơn của bà lúc tuổi già. Mà chính Olga cũng chưa bao giờ đề tặng ông bất cứ một bài thơ tình nào, cho dù, vì ông, bà đã từng viết những vần thơ “âm thầm ghen tuông cay đắng”. Thế nhưng, không thể phủ nhận được một điều rằng, tình yêu thứ ba này, tuy không làm mờ đi mối tình âu yếm trong quá khứ với Boris Kornilov, không khiến bà nguôi quên mối tình sâu đậm kéo dài “mãi mãi” với Nikolai Molchanov, thì vẫn từng là bàn tay chìa ra nâng đỡ tinh thần bà trong những giờ khắc hoang mang:
xuyên qua những lò thiêu say lửa cười nghiêng ngả
qua cái chết của chính mình anh tìm về thành Len sỏi đá
đến được nơi này vì anh rất yêu em
Anh tìm được nhà em, em đang sống êm đềm
không ở nhà chúng mình xưa mà trong ngôi nhà khác,
và người chồng mới bên em – thực tại làm anh ngơ ngác,
ôi sao anh chẳng ngờ đến sự hiện diện của người?!
…
Bạn đời của em ơi, - xin tha thứ cho em tiếng nghẹn ngào vô tình không trông đợi,
từ lâu rồi em không biết nữa đâu là thực là mơ…
(Bội bạc, 1946)
Anh đã nhận lấy người đàn bà u sầu, không mềm dịuTheo Lev Anninsky, Georgi Makogonenko đã làm mọi cách để Olga bình tâm lại, thậm chí, lấy quyền của một phó Phòng Văn nghệ BBT Đài Phát thanh Leningrad (nơi Olga làm việc suốt thời gian thành Len bị phong toả), ông đã “lệnh” cho bà phải viết cho xong thi phẩm “Trường ca tháng Hai” kịp ngày lễ Quân đội 23-2-1942. Bởi ông nhìn rõ, chỉ có công việc mới cứu được Olga khỏi nỗi đau riêng. Bản trường ca ấy đã cứu được Olga, trả lại sự bình tâm cho bà, cũng như cứu được rất nhiều người đàn bà goá khác của Leningrad khỏi chìm đắm trong hồi ức đau thương. Và tình yêu, cho dẫu đầy ắp ghen tuông, day dứt, thì vẫn cứ là “hạnh phúc”.
Người có ý nghĩ tối tăm, cơn mê dại nặng nề
Có nỗi niềm goá bụa không xoá được đau tê
Có nghiêm túc một tình yêu chưa từng qua đi hết
Nhận lấy về mình không mưu cầu niềm hoan hỉ
Miễn cưỡng nhưng vì yêu anh đã nhận về….
(Đã nhận lấy…, 1942)
Em giấu giếm nỗi niềm khổ sởvà hoang mang:
Của hờn ghen xuống tận đáy tâm hồn
Tưởng tới anh cùng một cô gái nhỏ
Không phải mình - tươi sáng, đáng yêu hơn!
… Giờ thốt nhiên em như chẳng là emNhững câu thơ này không phải được thốt ra vào một giây phút bất chợt, chúng phản ánh sự dằng xé day dứt trong tâm hồn của bà từ rất lâu.
Ít nói, ít cười, đùa những lời cay độc
Mọi người thương hại em, và bỗng chốc
Họ không còn chia sẻ những niềm vui
Giữa cuộc chơi em chợt nghẹn lời
Đưa mắt nhìn về miền mông lung bí ẩn
Trong giây lát em đã xa vạn dặm
Cô độc vô cùng với nỗi lòng riêng
Nơi nhạt nhoà ánh sáng không tên
Khẽ run rẩy trong khí trời ẩm ướt
Nếu khi ấy anh gọi em thảng thốt
“Em ở đâu?”… Em cũng chẳng quay về
để rồi cất lời khẩn khoản người thương:
Anh yêu ơi giữa bao điều vô thức
Hãy nhắc thật nhiều rằng anh rất yêu em
Em lại trở về giản dị đáng yêu thêm
Em sẽ không còn ghen tuông cay đắng nữa
Mới hôm qua còn chìm trong mắt em đâyNhững ngày này, trên môi Olga không ngừng ngân lên những bài thơ tình yêu của Martynovski, của Pasternak, của Marina Svetaeva… Dường như, đó là “liệu pháp tinh thần” của bà vậy, để thấy mình không đơn độc chịu đựng nỗi đau chia lìa. Và cuối cùng, đương nhiên, bà tìm quên trong… thuốc lá và rượu. Thực ra, bà bắt đầu uống từ lâu, ngay từ khi bắt đầu chung sống với Georgi Makogonenko và thói quen xấu này đã khiến miệng lưỡi thế gian xúc xiểm bà khá nhiều. Họ thêu dệt đủ điều. Thật đau lòng khi tưởng ra cảnh người phụ nữ phúc hậu dịu dàng này chìm trong cơn mộng của ma men. Nhưng, nhìn lại những gì bà trải qua, chúng ta hoàn toàn hiểu bà. Đôi khi, cơn mê lại đem tới cho tâm hồn những khoảng lặng cứu rỗi vô cùng cần thiết.
Bây giờ đã nhìn sang phía khác
Mới hôm qua còn ngồi bên em đợi tiếng chim gọi sáng
Giờ sơn ca thành quạ cả rồi anh.
…
Những con tàu đưa người yêu dấu đi rồi
Con đường trắng mang người đi mất hút
Và tiếng nức nở ngân vang khắp nơi trên trái đất:
“Anh yêu, em đã làm gì anh?”
(Mới hôm qua, 1920)
Đời đã chia cắt đôi ta đã khiến mình xa mãi
Em vẫn tin anh sáng trí sáng lòng
Nhưng chưa bao giờ chạm tay vào mảnh đất kiệt cùng
Hẳn anh chưa từng biết mùi ngải đắng
Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng
Ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời
Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn
Đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi
Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải
Mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi
Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời
Trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước.
(Những lá thư viết trên đường, 1952-1960)
Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơnXin nhấn mạnh: “Người đầu tiên, người đã xa mất dấu” (dịch sát nghĩa hơn là “mất tích”) - Olga muốn ngầm nhắc ý “mất tích”, không có tin tức gì về Kornilov thời gian từ sau ngày ông bị bắt.
Em mới hiểu, bây giờ anh có lý
Dù chuyện xong rồi, Anh đã xa cách thế!
“Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa theo...”
(Bài thơ cuộc đời, 1940 - Bằng Việt dịch)
In từ trang: https://www.thivien.net/ » Olga Berggoltz » Olga Berggoltz - cây ngải đắng của nền thi ca Xô Viết (phần 2)