Vương nhi cùng với phu nhân Chắc đang lẩn quất xa gần đâu đây? Tử sinh, chẳng đáng lo thay; Chỉ lo việc học sau này ra sao? Trọng nhi trí lớn, tài cao Đang cần thày giỏi, lẽ nào bỏ qua? Nếu không vướng việc con ta, Quyết liều cùng lão cáo già quân sư. Hoài vương bao nỗi ưu tư; Bàn cùng Nguyễn Vũ: -“ Hận thù gác bên, Đi tu, cầu sự bình yên Để cho nhi tử được chuyên học hành. Anh em ta vốn thâm tình; Chắc là Trần Cảnh không đành hại ta!” Thăng Long, lần nữa rời xa! Tìm lên Yên Tử xuất…
Đại bàng dẫn lối, voi tầm bờ sông; Vương nhi cưỡi ngựa dốc lòng, Rừng sâu vững bước, cố công tìm tòi.
Phu nhân võ nghệ tuyệt vời, Giật cây thương địch, tiến lui tung hoành; Lão Chu song kiếm giao tranh, Tả xung, hữu đột, quyết dành thế ưu. Mấy tên lính đã dính chiêu, Kêu la thảm khốc, bọt bèo thiệt thân; Hai người cố sức cản ngăn, Giữ cho vương tử đang dần bơi xa. Dần dần, Trời đã sáng ra; Một bày người ngựa liệu đà khép vây Tưởng như tận số rồi đây? Voi từ đâu, bỗng lao ngay đến…
-“ Cháu xin về có được không?” Hò reo, lũ trẻ hởi lòng, hỏi chơi. Viên quan trừng mắt, ngắt lời: -“ Chúng bay làm loạn? Ta thời tống giam!” -“ Tha cho lũ trẻ bần hàn!” Phu nhân nói đoạn, quay sang dặn dò: -“ Tạnh mưa, các cháu về cho!” ồn ào, lũ trẻ reo hò, chạy ra. Lệnh truyền: -“ Khám xét toàn gia!” Bặt tăm Quốc Tuấn - Con nhà thanh cao; Nghe đâu da giẻ hồng hào? Chừng năm sáu tuổi, biết bao cưng chiều Mà trong đám trẻ con nghèo Toàn sáu bảy tuổi, hò reo vỡ Trời; Lại thêm một đứa…
Tâm thành niệm Phật, thiết tha sách đèn; Mong con hưởng hết tinh nguyên Ngàn năm qua sách Thánh hiền chắt chiu. Ngày mười tháng chạp cao siêu(5) Giờ Dần vừa điểm, bao nhiêu điềm lành: Đầy Trời sao sáng long lanh; Vang rền sấm động, uy linh rạng ngời; Thiên binh, vạn mã lưng Trời Long, ly, quy, phượng khắp nơi du hành Thực hư ở chốn mông mênh; Đất Trời An Lạc bồng bềnh trong mơ. Một đêm thao thức đợi chờ- Trong phòng- bà đỡ, gia nô mỏi rời; Chợt nghe tiến khóc chào đời Vang rền như…
Dõi theo sử sách vạn niên Biết bao nhiêu cuộc vương quyền đổi thay; Trò đời, Tạo hoá vần xoay; Ngai vàng bỗng chốc sang tay, chuyển thời. Triều đình Nhà Lý rối bời: Những bày phản loạn khắp nơi tung hoành; Binh tàn, lực kiệt giao tranh, Hoàng thái tử Sảm chạy quanh Hồng Hà; May nhờ trợ lực Trần gia, Hương binh Lưu Xá mới qua hiểm nghèo. Họ Trần hộ giá sớm chiều; Tự Khánh, Thủ Độ góp nhiều chiến công. Giữ nghề chài lưới trên sông, Trần Thừa, anh cả lánh vòng binh đao; Anh hai, Tự Khánh…
11- QUÂN DÂN THỜI NHÀ LÝ KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƯỢC LẦN THỨ HAI: Lời ca ngợi khắp bốn phương: Lê Hoàn đánh giặc sáng gương Tiên rồng; Lại lo xây dựng non sông, Vì dân, vì nước, góp công, trổ tài… Lê Long Đĩnh lắm trái sai; Lòng dân ly tán, nhớ hoài Tiền Lê. Lý Công Uẩn liệu vỗ về, Mở đầu triều Lý, tính bề dựng xây; Đô Hoa Lư chuyển về đây: Thăng Long là đất rồng bay - Tuyệt vời! Nước Đại Việt mãi rạng ngời… Nhân Tông- bảy tuổi - nối ngôi(62) sau này; (62)- Triều Tiền Lê bắt…
9- VUA NGÔ QUYỀN VÀ CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG GIANG: Mộng bành trướng đã thành rồi! Giặc Nam Hán vẫn đứng ngồi không yên. Chỉ bằng một trận xông lên, Dương Đình Nghệ đã tô thêm sử vàng: Con nuôi ( Danh nghĩa rõ ràng), Chính là lực lượng ba ngàn nghĩa binh; Anh hùng, hào kiệt liên minh; Từ Ái Châu, bất thình lình tiến ra, Đánh Giao Châu, chiếm Đại La… Giặc chạy tán loạn, chết già nửa quân(48); Lý Tiến trốn chạy thoát thân; Nổi giận, chúa Hán quyết tâm rửa hờn; Khổ thân Trần Bảo tài non: Vây…
7- PHÙNG HƯNG ĐƯỢC NHÂN DÂN TÔN XƯNG LÀ “ BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG”: Nhà đường cai trị, lộng quyền; Giữa thế kỷ tám, càng thêm bạo tàn: Cao Chính Bình - Đô hộ quan- Đặt bày thuế khoá trái ngang, nặng nề, Thẳng tay hà hiếp dân quê… Lửa hờn căm lại bốn bề bốc cao; Đường Lâm sinh ra anh hào(32), Phùng Hưng đánh cọp, mưu cao, sức hùng; Với em - Phùng Hải- kiên trung, Dân lành, hào kiệt khắp vùng xin theo. Tống Bình (33) tưởng đã xuôi chiều? Quân binh nổi dậy, hò reo ngút trời; Phủ thành đô hộ rối…
5- LÝ NAM ĐẾ, TRIỆU VIỆT VƯƠNG VÀ NƯỚC VẠN XUÂN: Lần theo sách sử sang trang, Đầu thế kỷ sáu huy hoàng, khó quên: Nhà Tề đổ, Nhà Lương lên; Dân ta nô lệ, càng thêm tủi hờn. Hướng theo cờ nghĩa Lý Bôn, Tinh Thiều, Triệu Túc,… bốn phương thề nguyền; Anh hùng, hào kiệt kết liên Từ Long Hưng đến các miền xung quanh; Nghĩa quân rời tỉnh Thái Bình Kéo về đánh chiếm châu thành Thăng Long(18); Ngời ngời khí thế tiến công; Chính quyền đô hộ đi tong, cúi đầu; Bạo tàn như Vũ Văn Hầu Cuống cuồng…
3-HAI BÀ TRƯNG DƯƠNG CAO CỜ NGHĨA “ĐỀN NỢ NƯỚC TRẢ THÙ NHÀ”: Mê Linh, tiếng trống xa vang; Mùa xuân Canh Tý(6) rộn ràng lòng dân: Bà Trưng làm lễ xuất quân; Lời thề định hướng quyết tâm dựng cờ; ( Báo đền nợ nước, trước lo; Thù chồng được trả - Chẳng mờ trăng thu); -“Một, xin rửa sạch nước thù Hai, xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba, kẻo oan ức lòng chồng Bốn, xin vẹn vẹn sở công lênh này” Hướng theo cờ nghĩa tung bay, Anh hùng, hào kiệt đó đây tụ về. Biết bao phụ nữ phòng khuê Cầm quân…