(Tiếp theo) QUYỂN 12
LÊ THÁNH TÔNG HOÀNG ĐẾ (1460- 1497)
Đó là ngày, giữa năm mồng sáu
Lên ngai vàng lễ hậu phát tang
Cho anh và mẹ đàng hoàng
Rước vào thế miếu lập đàn cầu siêu
Vua có nhiều thiên tư đặc biệt
Là một người cương quyết thực tài
Lại còn võ giỏi văn hay
Làu thông kinh sử thuở nay mấy người
Ngự trên ngai tuổi đời muời tám
Sửa nhân luân, quyết đoán mối giềng
Đào Biểu truy nghĩa tuyên dương
Đắc Ninh giết bỏ làm gương cho đời
Nay cho đổi, là thời Quang Thuận
Xuống chiếu truyền tha án tù nhân
Xét xem chức tước bá quan
Cấp cho ruộng đất để làm của riêng
Năm Canh Thìn sai quan Lê Liệt
Đem quân đi tiễu triệt Bồn Man (1460)
Dựng văn bia ở Mục Lăng
Bắt làm hộ tịch, đe răn phản thần
Lệnh cho khắp các quan huyện phủ
Phải ưu tiên khuyến nhủ nhân tâm
Chăm lo cày cấy siêng năng
Bỏ gốc theo ngọn khuyên dân không làm
Lệ thi Hương vua ban định rõ (1462)
Danh sách thi gạt bỏ những người
Dù cho học giỏi, có tài
Mà vô đạo đức cũng hoài bỏ đi
Lại định kỳ thi Hương, thi Hội
Đệ nhất thời phải hỏi Tứ Thư
Thứ hai : chiếu, chế, biểu từ
Thứ ba " thơ, phú. Thứ tư :sách, bài
Về hành chánh, hỏi tay hiểu việc
Chốn nha môn phải biết ký tên
Hưu quan sáu chục trở lên
Được về trí sĩ giữ nguyên tước hàm.
Đổi sáu bộ ra làm sáu viện
Mỗi viện đều riêng tuyển thượng thư
Truyền cho làm việc đúng giờ (1462)
Nhưng saulại đổi y như xưa làm
Tháng hai năm Quý Mùi, thi Hội
Vua thân hành vấn hỏi thí sinh (1463)
Tiến sĩ chọn được Thế Vinh
Bắt loa truyền gọi xướng danh từng người
Trăm kẻ thi một người được đỗ
Treo bảng vàng ngoài cửa Đông Hoa
Ban ân ủy dụ thật là
Vô cùng trân trọng vang xa dội gần
Năm Giáp Thân (1464) vua về cúng tế
Ơ Sơn Lăng theo lệ hằng năm
Giải oan Nguyễn Trãi, chiếu rằng :
"Bổ cho con Nguyễn Trãi chức đồng tri Châu"
Vua nhớ đến công lao Nguyễn Trãi (1467)
Cho phục hồi hết thảy thơ văn
Đề cao giá trị tinh thần
Phần nào chuộc lại lỗi lầm tiên vương
Sai người đi dò đường, dò bể (1490)
Vẽ bản đồ hình thể quốc gia
Định ra biên giới nước ta
Ai Lao, Chiêm Quốc thật là phân minh
Việc quân ngũ định thành quy chế (1467)
Chia ra làm mỗi vệ như sau :
Vệ thì : năm sở làm đầu
Sở : hai chục đội được giao tuyển người
Quân số đội là hai mươi chẵn
Luyện côn quyền, thương giản cho tinh
Lúc nào đất nước thanh bình
Cho về một nửa dân đinh cấy cày
Sai Khuất Đã ra tay đánh giặc (1467)
Đến Mã Giang vây bắt Đạo Đồng
Tiểu trừ ở sách Man Nhung
Dẹp tan giặc cỏ yên lòng nhân dân
Với quần thần, vua ban sắc dụ
Thường hay dùng điển cũ, ý xưa
Răn người bất nghĩa a dua
Lời trong sắc dụ nghe như văn tài
Nguyễn Bá Ký là tay học sĩ
Chê vua không chú ý sử kinh
Không theo lối học thực hành
Phù hoa sáo điễn thiếu phần cách tân
Vua tự xưng Tao Đàn nguyên soái
Hăm tám người lập hội làm thơ
Đa phần bài xướng của vua
Các quan họa lại ngợi ca hết lời
Vua lại sai Sĩ Liên phụng chỉ
Viết "Đại Việt sử ký toàn thư"
Phu Tiên năm Hợi bấy giờ
Hơn hai niên kỷ đến chừ mới xong (1479)
Truyền Lễ, Cử, Nhuận, Trung, Đình Bảo
Biên tập xong chính sự quốc triều
Viết từ Thái Tổ tiếp theo
Soạn thành trăm quyển chia nhiều bộ môn
Các sử quan vâng theo chếu chỉ
Cố cho xong bất kể đêm ngày
"Thiên Nam Dư Hạ Tập" này
Công trình biên soạn đến nay hoàn thành (1483)
Lại sai chép "Thân Chinh ký sự"
Ghi rõ ràng lịch sử đánh Chiêm
Ai Lao cũng đã dẹp yên
Viết thành một quyển để riêng bấy giờ
Luật Hồng Đức trong Dư Hạ tập
Là biểu trưng luật pháp quốc gia
Hình quan theo đó mà tra
Những điều luật định thật là phân minh
Vua ví mình ngang danh Đỗ Phủ (1496)
Thường huênh hoang giữa chỗ triều đình
Tao Đàn nguyên soái xưng danh
Thơ văn khẩu khí chỉ dành hạng trung
Lê Thánh Tông có chừng vài quyển
Đại khái là "Quỳnh Uyển cửu ca"
"Cổ kim bách vịnh" thi ca
"Xuân vân", "Kim cổ", "Anh hoa" thơ Đường
Về ngoại giao lựa phương khôn khéo
Nước Chiêm Thành chọn mẹo cầu phong
Nhã Lan không dám hai lòng
Bồn, Sơn man cũng phục tùng nước ta
Với nhà Minh thì ta giữ đúng
Cứ ba năm triều cống một lần
Chọn đi những vị sứ thần
Có tài ứng đối ngoại nhân phải gờm
Viết cảo thơm "Bình Chiêm sách lược"(1471)
Mười mấy điều phát trước trong doanh
Tháng năm Tân Mão đánh thành (1471)
Chà Bàn bắt sống tù binh mấy ngàn
Băm tám năm Tư Thành nối nghiệp
Được tôn xưng hoàng đế Thánh Tông
Một người nổi tiếng hiếu trung
Có tài văn học, tinh thông lắm điều
Trong đời vua có nhiều trước tác
Định luật hình cùng các việc binh
Xây thêm đền điện, cung đình
Sửa sang chính sự cho thành nếp hơn
Đạo làm con, một lòng hiếu thảo (1496)
Khi mẹ đau dâng cháo, hầu cơm
Ngày đêm bên cạnh chăm nom
Đến khi mẹ chết tự làm ma chay
Viết bút thỏ một bài tự thuật :
"Ngũ thập niên hoa thất xích khu
Cương trường như thiết khước thành nhu
Phong xuy song ngoại hoàng hoa tạ
Lộ ấp đình tiền lục liễu tồ
Bích hán vọng tùng vân diễu diễu
Hoàng lương mộng tỉnh dạ du du
Bồng lai sơn thượng âm dung đoạn
Băng ngọc u hồn nhập mộng vô ?
Ngoài trời rắc mấy hạt mưa
Giấc thiên thu đã vỗ ru đêm dài
"Năm chục hoa niên bảy thước thân
Lòng như sắc cứng bỗng mềm dần
Gió lay khô héo hoa bên cửa
Sương dãi gầy mòn liễu trước sân
Trời biển xa trông mây thăm thẳm
Kê vàng tỉnh giấc dạ bâng khuâng
Khuất lời cách mặt non bồng vắng
Băng ngọc du hồn nhập mộng chăng ?"
Vua đứng ra, tự mình tẩm liệm
Thay áo quần cho đến rửa chân
Bỏ vào miệng mẹ kim ngân
Cầu xin cho mẹ siêu thần cõi tiên
Lê Thánh Tông người hiền hiếm có
Lúc làm vua uy vũ anh minh
Giữ yên trăm họ thái bình
Xiển dương văn hoá, luật hình sửa sang
Tượng Thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ