Quân bất kiến? Thiên Cấm Sơn! Thiên Cấm thượng: Hữu Thanh Long tuyền, lưu thuỷ trì, Tây lĩnh nam phong, quang minh giới, Hàng hàng tự tự tiệm sơn thuỳ, Cao các Quan Âm khoái tân nguyệt. Mục hành tán thán, hiện quang uy, Tả thủ trì bình, thanh tịnh thuỷ, Hữu thủ tụng sái, dương liễu chi. Sắc không không sắc vô trần tục. Vạn Linh cổ tự, tuyệt tự kỳ! Lực kiếp tu hành thành vạn pháp, Đại chí, đại nguyện, đại từ bi. Hà sơn giả? Thiên Cấm thị! Uý lâm phục lĩnh, trường nan lộ, Sơn ngoại thuý đề, phóng thiên thi. Viễn lâm thụ ấm như tiền độ, Cửu cửu phương tòng vạn điểu quy. Nhất lão nột nho phùng hứng sự, Truy âm hạo hạo tống đông thì. Yên ảnh hoành hoành liên hư ảo, Nhân sinh đồ thán bất tư nghi. - Tiên cảnh hà tại? - Kim an tại! Ô hô! Đại Nam! Đại Nam uy! Ngô Việt quan hà tình thiên lý, Thức quốc man man, hồng sắc kỳ. Huề trượng hạ triền, tâm nghịch thị, Sơn gian thử địa hệ biệt li.
Tạm dịch nghĩa: Núi Thiên Cấm (Núi Cấm)
Anh thấy không? Ngọn Thiên Cấm! Trên núi ấy: Có suối Thanh Long, nước chảy chậm, Ngọn quang minh phía tây, gió nam về, Lớp lớp chùa chiền ven sườn núi, Gác Quan Âm cao thích trăng mờ. Mắt nhòm tán thưởng, ánh uy linh của Phật hiện ra, Tay trái cầm bình, nước tịnh trong, Tay phải là nhành dương liễu, Sắc không không sắc, không bụi trần. Chùa cổ Vạn Linh, chùa ấy tuyệt! Ra sức tu hành thành vạn pháp, Chí cả, nguyện to, lòng từ bi bao la. Núi nào vậy? Là núi Cấm! Rừng ôm đỉnh núi, đường khó đi, Chim kêu bên ngoài, phát thơ trời. Rừng xa cây che bóng như thuở nào, Chim tận phương xa lại tìm về. (Có) Một lão Nho dốt gặp lúc hứng, Tìm đến chỗ tiếng chim vang đang tiễn mùa đông. Khói ảnh bên mình như hư ảo, Không còn mối ngờ riêng về thói đời lầm than. Tiên cảnh ở đâu? Ở nơi này! Ô hay! Nước Nam! Uy danh nước Nam! Nước non Việt ta ngàn dặm tình. Biết nước mênh man, sắc cờ đỏ. Chống gậy xuống triền, lòng không muốn, Khoảng núi đất này trói biệt li.
Nhàn trung tận nhật bạn cô tâm, Trà biện gian biên thả hạo ngâm. "Hương thuỷ mặc trầm, hoa sắc sắc", "Lãng nho tu học, bút khâm khâm". "Cơ sàm cánh bả thuỳ nhân ngoại?" "Trọc thế tiêu ma sự loạn thâm?" Tự tiếu bạch đầu kim cổ sử, Vọng xuân lai tảo dữ lai cầm.
Tạm dịch: Thơ làm lúc ngẫu hứng.
Cả ngày nhàn nhã buộc lòng cô, Bày trà bên nhàn mà ngâm nga. "Hương nước mặc trầm, hoa toả sắc, Gã nho tự tại học hành, chăm chỉ viết. Chuyện dèm pha nắm chặt, ai kẻ nằm ngoài ấy ? Đời đục sự loạn sâu (liệu) mất chăng?" Đầu bạc tự cười sử (chuyện mình) xưa nay, Ngồi chờ xuân đến sơm cùng với chim về.
Phiên âm: Nguyên đán cận tiết, ngộ nhị thúc Bùi Phú Quận tang sự, tứ tuyệt tương tác hoạ cảm.
Cố quận thuỳ tri đáo cố nhân? Hàn y biên mộ lệ triêm cân. Tương ly cánh bả trường lưu luyến, Kí viễn âm ty tiếp mộng xuân.
Tạm dịch: Gần tết Nguyên Đán, gặp đám tang của chú Bùi Phú Quận, làm bài tứ tuyệt hoạ cảm
Chốn xưa còn biết đến người đã đi? ~ [Chú Quận đã mất rồi còn ai nhớ đến người đã khuất?] Áo sơ bên mộ, lệ đẫm ướt khăn. Sắp biệt ly rồi, muốn giữ lòng lưu luyến, Gửi đến âm ty tiếp giấc mộng xuân.
Cơ phiệt, thương giang tẩu hí trình, Xuyên tâm ba lãng xuất thiên binh. Sơn hà khúc khúc, tri tân địa, Tuyết lĩnh cao cao, ký tiểu tình. Long ngọa quá trầm, tiên hậu lưỡng, Cửu lưu đầu hải, vị chung hình. Vấn quân hương thủy bôn triều tại? Chỉ thính ngư ca báo hữu kình.
Tạm dịch: Qua sông Tiền.
Dòng xanh, bè máy một đường vui, Lòng sông, con sóng như ngàn binh tướng. Núi, sông hiểm yếu, cho biết vùng đất mới, Ngọn Tuyết lĩnh cao, gửi tiểu tình. Rồng nằm âm đó, hai dòng trước sau, Chín sông ra biển, chưa hết hình. Hỏi anh nước quê (ta) chảy đến đâu? Chỉ nghe tiếng người đánh cá bảo rằng có cá to.
Phiên âm: Đồng kí chư hữu báo cảm. Cáo tật thị chúng.
Nhân du từ xứ xứ? Độc hạc vô gia tử. Ngô mẫu phát từ tâm, Ngã gian viên lập thự. Thính nhân: "lục nguyệt hồi!", Kim toán dư niên xử. Bất kiến đáo hoàn tiền, Mạc văn thùy năng ngữ? Ngã tri mệnh dữ ngu, Thiện sự cánh trì khu. Hảo ái hà nhân thức? Chỉ ngô sinh nột nho. Vị tình cộng phương hại, Ngô diệp tự mạc thu. Đản giác y thiên địa, Nhân tâm nhất đẳng phù.
Tạc dạ trùng ngữ văn, Nguyệt quang vô tiền độ. Ngô chẩm thê thê thính sậu âm, Hiểu lai tương kế lập tân mộ. Cưỡng toán kim niên đáo thập niên, "Nghĩa" năng dục độc trường lệ khổ. Kê thanh báo thượng thôi, Sương khí lưu thảo lộ. Ai tai! Ai tai! Mộ biên sinh đạo khách hí trình, Xa tẩu tung hoành nan nan đoái. Nhân ngọa địa huyệt như vô hình, Chúng giai tâm tánh thùy ai, nộ? Ô hô! Bất tri thiên mệnh hậu năng tình? Ngã túc bộ trì thiên lý hận. Bồi hồi phong niệm oán thanh minh!
Dịch nghĩa: Bài hành 21-2
Đêm qua tiếng dế kêu, Ánh trăng không còn sáng như trước. Gối nằm nghe thê âm, Bàn chuyện sớm mai làm mộ mới, Gượng tính năm nay đã chục năm rồi. Đọc lên chữ "nghĩa" mà lệ khổ thành hàng. Gà gọi giục lên đường, Sương khí còn lưu ở lộ cỏ. Xót thay! Xót thay! Bên ven mộ có con đường khách đi, Xe chạy ngang dọc không đoái đến. Người nằm dưới huyệt như vô hình, Tâm tính con người ai xót, giân? Ô hay! không rõ mệnh trời sau ai kẻ có tình? Chân ta bước chậm hận đường xa, Bồi hồi gió khẽ oán tiết thanh minh!
Không thượng song phi ái lưỡng nha, Ưu tâm đề bút báo tình gia. Toạ trung nhàn thoại sầu vô thiểu, Thiên ngoại ám thành tiếu hữu đa. Nam quốc tuỳ hình thiên lý ải, Cổ long phục ảnh tất sơn hà. Mộ sào Việt điểu đồng lai tựu, Mạc sự anh hùng thí lục ba.