Dăm năm cúng Tết một lần tươm, Xe máy chăng ngang khắp mặt đường. Táo đỏ còn tem lồng bóng kính, Mai vàng nguyên gốc dựa sây tường. Đầy mâm chả thịt mào gà vểnh, Nửa đĩa trầu cau cánh phượng giương. - Bún đậu u ưa bày mẹt lá! - Thôi nào! vị mắm ám sang hương.
Nguyệt hạ ẩm Thiểm thước ngọc chi mãn quế hoa Tản sơn tịch tọa khán long hà Lưỡng thần hôn chiến thiên niên tận. Tam lĩnh miên phù bán dạ qua. Vô cứ dung căn sầu mục tử Hữu tình Đà thủy luyến Hằng Nga Tao nhân hạ trản thao thao tiếu Bát cú thiên thành nguyệt ngữ xa.
Dịch nghĩa: Ánh hoa quế long lanh chén ngọc, Ngồi ở non Tản thấy sông lượn hình con rồng. Sơn tinh Thủy tinh đánh nhau vì tình suốt nghìn năm, Ba vì trôi trong mây trắng, quá nửa đêm. Không có cớ mà Chú cuội buồn ở gốc cây đa, Hằng Nga tỏa sáng nước sông Đà để tỏ tình. Khách thơ buông chén cười nói không ngừng, Có được bài Bát cú do mượn lời của trăng.
Bài dịch thơ 1: Uống rượu dưới trăng Hoa quế long lanh viền chén ngọc Tản viên lừng lững tựa bờ sông Hai thần mở trận do mày liễu Ba đỉnh choàng mây đến rạng hồng Chú Cuội buổn buồn ngồi bệt gốc Hằng Nga rờ rỡ sáng ngang dòng Thi nhân cười nói, gieo năm vận Toàn mượn lời trăng để dốc lòng.
Bài dịch thơ 2: Uống rượu dưới trăng Hoa lấp lánh viền quanh chén ngọc, Xem Tản viên uốn khúc sông Đà. Song Tinh nào bớt can qua, Ba vì ngây ngất la đà trong mây. Gốc đa Cuội buồn ngây chi đó, Để Hằng Nga rờ rỡ ánh sông. Rượu vào, thơ chảy tuôn dòng, Điểm ra, toàn mượn tiếng lòng của trăng.
Cái Răng* họp chợ quả là đông, Từ lúc tinh mơ đã nghẹn dòng. Gạo thóc ùa về chăng dọc bến, Chuối dừa đem đến chẹn ngang sông. Tàu thuyền tụ tập dồn xô đậu, Hàng quán lượn quành cố lách thông. Thấy cái ồn ào yên ả ấy, Muốn xen vào giữa, lại vừa không.
Chú mèo vốn của vợ con tôi, Là bạn lâu năm lắm chuyện cười. Đẩy được cái then cài chạn bát, Cậy toang thanh chốt khóa vung nồi. Vàng anh nép cánh e lồng bẹp, Chuột nhắt xổng chân giỡn mặt chơi. Tiểu hổ vẫy đuôi hay chịu nịnh, Chứ không qua mặt chủ nhà nuôi.
Vịnh Chu Văn An Lịch thế thụ nhân thậm chí tình, Bần quy xử sĩ (1) mạc cầu vinh Thủy tề hiếu tử(2) nghiên bàng vũ Mao ốc đồ nhi bút khởi thanh Học hải ân sư khai quảng đạo(3), Nho lâm phương nghiệp tiệm cao đình. Nhược nhiên trảm sớ quân vương chuẩn, Hà tất miết trì (3) ẩn cự danh.
Nghĩa: VỊNH CHU VĂN AN Cả đời trồng người, tình cảm thật sâu nặng. Không làm quan về quê nghèo, chẳng cầu vinh. Con trai Thủy tề lấy nghiên mực làm mưa, Học trò dưới mái nhà tranh cũng sớm thành đạt. Ông đã mở ra con đường rộng trong giáo dục, Nghề giáo cũng được vẻ vang nơi triều chính. Nếu như bản sớ xin chém gian thần được chuẩn y, Người tài như Ông việc gì phải chịu ẩn ở Miết trì.
Thơ dịch: VỊNH CHU VĂN AN Treo mũ về quê, nặng với tình, Trồng người hợp lẽ, chẳng màng vinh. Khuyên trò mưa mực mau chống hạn, Giúp trẻ trăng đèn sớm nổi danh. Vì nghiệp, thuyền văn ra biển học, Nhờ thầy, nghiệp giáo rạng sân đình Nếu như trảm sớ phê nguyên tấu, Hà tất tài năng phải giấu mình.
TRẦN THẾ HÀO
Chú thích: (1) Xử sĩ: Người thi đỗ không ra làm quan. (2) Con vua Thủy tề là học trò của Ông đã làm mưa chống hạn, cứu dân (sự tích đầm Mực). (3) Về sau, vua Trần Minh tông mời Ông nhận chức Tư nghiệp Quốc tử giám, dạy Thái tử. (4) Ao ba ba ở Côn sơn, Chí linh, Hải dương, tên một bài thơ của Thầy Chu.
Nam quan hận ẩm, xuất Lam sơn, Quân tính, thần danh diệp sấm(1) tường. Tân đảm(2), thập niên tì hổ dã, Lôi phong(3), tái cổ ngạc kình thương. Vi kinh(4) cầm tặc hồi thiên kiếp, Huy bút khuynh thành chấn tứ phương Thắng bại lệ giai tài đức ngộ, Can kỳ hà đại lập minh vương.
TRẦN THẾ HÀO
Dịch nghĩa: VỊNH NGUYỄN TRÃI – 3 BÀI BÀI 1 – TỤ NGHĨA
Nuốt mối hận Nam quan, Ông đến Lam sơn, Lời sấm trên lá cây ghi rõ họ tên của quân thần. Nằm gai nếm mật, mười năm tôi luyện nghĩa quân mạnh như hổ báo, Sấm vang gió cuốn, sau hồi trống trận giết sạch lũ cá kình cá sấu. Vây kinh thành, tha mạng cho hàng nghìn tên giặc bị giam hãm, Khua ngọn bút, nghiêng thành quách, chấn động muôn nơi, Người thắng, kẻ thua đều biết tài, đức của Ông, Có thời nào, lấy cành trúc làm cờ mà thành nghiệp Đế Vương.
Dịch thơ:
TỤ NGHĨA
Nam quan còn hận, tụ Lam sơn, Sấm lá truyền tin nghẽn suối nguồn. Gai mật mười năm lên gấu hổ, Giáo gươm dăm trận sạch dê chồn. Thảo mươi hàng chữ, nghiêng thành lũy, Tha vạn kiếp tù thoát thảm thương. Thắng bại đều khen tài với đức, Đời nào, cờ trúc lập ngôi vương.
Tác giả dịch
Chú thích: (1) Sấm lá: Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (2) Thường đảm ngọa tân: nếm mật nằm gai (3) Lôi lệ phong hành: Sấm vang gió cuốn (4) Vây thành Đông quan, bức hàng quân Minh.
Lệ chi viên án chấn thanh khung, Hà cố trượng phu ngộ khốn cùng. Hoàn kiếm, đình thần sinh ngạ hổ, Tàng cung, liệp hộ chử điền ưng. Vĩ nhân phương cảo cuồng phong tản, Nguyễn tộc phần hương phẫn hỏa xung, Tích sự động tâm ba nghiễn mặc, Luận đàm khởi bút mạc danh xưng.
TRẦN THẾ HÀO
Dịch nghĩa:
VỊNH NGUYỄN TRÃI – 3 BÀI Bài 2 - THẢM ÁN
Vụ án Lệ chi viên động cả trời xanh, Vì sao bậc Trượng phu lại bị nỗi cùng cực. Khi yên bình, đã trả kiếm, đám bề tôi đẻ ra mấy con hổ đói, Lúc hết chim, cất cung tên, lũ thợ nấu cả chim ưng săn mồi. Gió bão cuốn bay giấy sách của bậc vĩ nhân, Hương thắp của họ Nguyễn bốc lên thành lửa , Việcxưa khiến động lòng, sóng nghiên mực, Giở giấy bút viết bài, nhưng không biết nói thế nào.
Dịch thơ:
THẢM ÁN Án Lệ chi viên máu đỏ tràn, Trượng phu chịu tiếng, gánh điều oan. Lộng thần lòng đói sinh hùm đói, Hết thỏ, thợ săn nấu chó săn. Nhang cúng linh hồn hương lửa bốc, Sách thơm sự nghiệp khói tro tàn. Việc xưa bứt dứt, chao nghiên mực, Mòn bút, cạn dầu chẳng nổi trang.
Xuân vi(1) độc quyển điểm phê hồng, Đích thị thiền quan(2) ngữ hưởng chung. Thiên tải hùng văn phi ngẫu tác, Nhất kỳ công thuật hãn tương phùng. Ba chu bạch thủ ưu phù trạo, Biến sự đan tâm dục biểu trung. Bán dạ, tinh quang(3) dao mặc khách, Hàn sương, từ chẩm, đối tiền song.
TRẦN THẾ HÀO
Dịch nghĩa: VỊNH NGUYỄN TRÃI – 3 BÀI Bài 3 – DANH NHÂN
Chấm bài văn thi đình, phê nhiều điểm đỏ, Đúng là Quan chùa có tiếng nói như chuông. Bản hùng văn, nghìn năm, không có bài sánh, Cách tấn công trong ván cờ, ít người được như thế. Thuyền gặp sóng, trắng tay mà lo chèo lái, Nước gặp biến, khó bày tỏ được hết tấm lòng trung. Nửa đêm, sao khuê lấp lánh, có ai trằn trọc, Sương lạnh, rời gối, ngồi trước song cửa sổ.
Dịch thơ: DANH NHÂN
Chấm bài đối sách điểm phê hồng, Lại chính Quan chùa tiếng tựa chuông. Nhấp bút thành văn nào mấy sánh, Bày cờ chấp nước dễ bao cùng. Sóng xô, tay lái lo về bến, Triều biến, tấm lòng giục báo trung. Lấp lánh sao lay ai thức giấc, Sương sa, trăn trở, dựa bên song.
Tác giả dịch
Chú thích: (1) Kỳ Thi đình mùa xuân Mậu Tuất 1442 (6 tháng trước vụ án Vườn vải), Ông là 1 trong 4 quan Độc quyển chấm bài. Bia số 1 tại Văn miếu ghi lại việc này. (2) Đang chức Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ, kiêm Trung thư Quốc sử sự, kiêm Gián nghị, kiêm Hành khiển lục đạo, Ông kiêm luôn chức Đề cử, trông chùa Tư Phúc của Triều đình ở Côn Sơn. (3) Lê Thánh tông sắc phong: 抑齋心上光奎藻 ”Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.