Hỏi: Đấu tranh giải phóng Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Mà Tạo Hoá đã ban mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm có phải là Đại Từ Đại Bi không?
Đáp: Nếu làm được như vậy đúng là Đại Từ Đại Bi. Còn nếu giải phóng dân tộc ra khỏi áp bức Độc Quyền Độc Tài Độc Trị tàn bạo, rồi lên cầm quyền cai trị không những không trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản mà Tạo Hoá đã ban cho mỗi con người. Tiếp tục con đường cũ Độc Tài Độc Trị thời cuộc giải phóng đó đối với dân mà nói là cuộc chiến tranh phi nghĩa, được là Vua, thua là giặc, dân vừa thoát ra khỏi họng cọp, liền rơi vào miệng sói và sự việc này cứ lặp đi lặp lại hai nghìn năm rồi. Một dân tộc mà mang hai chữ Đồng Bào thời dân tộc đó là dân tộc Đa Nguyên, Dân Tộc kết hợp nhiều chủng Tộc. Dân Tộc Bách Việt Văn Lang, hay 54 dân tộc anh em Việt Nam. Đã là Dân Tộc Đa Nguyên kết hợp nhiều chủng tộc như vậy. Thời không phù hợp chế độ độc tài độc trị. Mà chỉ phù hợp sống theo Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc truyền thống giữ nước và dựng nước mà thôi. Sống theo Hiến Pháp, Luật pháp,Đạo Pháp là sống Công Bằng Bình Đẳng, Quyền Tự Do, Quyền Ngôn Luận, Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc mới thật sự thể hiện đầy đủ đi vào đời sống con người.
Hỏi: Thế nào là Đạo Lớn?
Đáp: Đạo là con đường để đi, nếu đó là con đường Văn Hoá Cội Nguồn, Văn Hoá Đại Đồng. Thời đó chính là con đường lớn, Đại Đạo ra đời. Không phân biệt Đảng phái, Đạo giáo, Tôn giáo, màu da chủng tộc, giàu nghèo, Tà Chánh, dốt ngu, Thiện ác đều đi được cả. Mỗi bước chân là mỗi bông hoa mùa xuân nở theo chân của họ.
Hỏi: Thế nào là Đức Lớn?
Đáp: Suốt đời vì nhân loại nhưng không cầu bổng lộc gì cả. Phi ân bất cầu báo, chỉ sống theo lòng từ bi bác ái, thương nhân loại khốn khổ, luôn ở ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác trong sạch Vô Vi. Những kẻ bỏ sức ra một đồng, muốn thâu vào bạc tỉ. Lúc nào cũng vì ngôi cao bổng lộc. Quyền thế và Địa vị, lối sống như vậy chỉ vì danh vì lợi vì chức vì quyền. Sống trên mồ hôi, nước mắt xương máu của dân, những kẻ như vậy dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu cũng chỉ là kẻ thất Đức mà thôi.
Hỏi: Thế nào là người biết?
Đáp: Người hiểu biết là người thấy thiện nên theo, thấy ác nên bỏ. Tôn thờ Chính Nghĩa, tôn thờ non sông Tổ Quốc, tôn thờ Văn Hoá Cội Nguồn. Tôn trọng người chính là tôn trọng mình, sống Bình Đẳng, thường làm lợi ích cho Tổ Quốc trên lợi ích cá nhân. Hạnh phúc thiên hạ cũng chính là hạnh phúc của mình, người có ý tưởng vì nhân loại, thời lúc nào cũng làm cho nhân loại vui. Lối sống giản dị dù ở địa vị cao hay giàu sang phú quí. Cũng không phô thanh thế của mình. Người như thế chính là người Đại hiểu biết.
Hỏi: Như thế nào là người giác ngộ?
Đáp: Hoà mình tất cả hết thảy các tầng lớp xã hội nhưng trụ vững lòng thanh tịnh sống vì Chính Nghĩa không sống theo danh lợi chạy theo danh lợi. Không vì thế mà danh lợi đánh mất mà càng ngày càng lớn, ví như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, sống trong danh lợi mà không nhiễm danh lợi. Những người nào vì nhân loại, không vì mình và cụ thể nhất là xem qua hành động của họ như Quốc Tổ Vua Hùng, như Phật, như Chúa chẳng hạn. Đó là những người Đại giác ngộ.
Hỏi: Thế nào là người ngu?
Đáp: Những kẻ thường cho mình có trí nhưng làm hại non sông Tổ Quốc, làm hại Đồng Bào anh em, làm trái lại lương tâm. Không rõ sau khi chết Linh Hồn mất hay còn, cứ làm bừa, mãi sa chân vào con đường tội lỗi, để rồi nhận lấy hậu quả thê thảm, người như thế khác nào người mù, trí mù. Không trở thành kẻ ngu mới là chuyện lạ.
Hỏi: Thế nào là tư tưởng lớn?
Đáp: Những người phát Đại Nguyện đều là những người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng là người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng phát nguyện rằng. Ta nguyện giải thoát tất cả sự thống khổ, khổ nô lệ, nô lệ bạo lực cửa quyền, nô lệ kiến thức, khổ đói nghèo, khổ lạc hậu, khổ sanh, lão, bệnh, tử, làm cho nhân loại thật sự tự do thật sự hạnh phúc. Đại Đồng Bình Đẳng ai ai cũng thể hiện đầy đủ những quyền mà Tổ Tiên Đức Cha Trời đã ban cho họ, đầy đủ trí tuệ, không có sự bí mật nào mà không biết, không có sự huyền bí nào mà không thông. Dù cho đó là sự huyền bí quá khứ lúc chưa sanh vũ trụ hoặc suốt vị lai vũ trụ bị huỷ diệt và sanh vũ trụ mới và mỗi Linh Hồn tự làm chủ lấy mình. Làm chủ vũ trụ an vui tự tại. Nếu ta không đưa nhân loại tới cảnh giới đỉnh cao như vậy, thời ta chưa hội nhập vào ngôi vị Chánh Đẳng, Chánh Giác, vẩn còn tiếp tục là Đấng Cứu Thế. Tuỳ nhân duyên mà hiện thân hoặc đầu thai ra, ta lúc nào cũng theo sát nhân loại, lập ra nhiều phương tiện để cứu khổ cứu nạn, đưa nhân loại đến bở giải thoát, trở thành Chánh Đẳng, Chánh Giác, ngôi vị Chí Tôn. Ngôi Vị Thế Tôn. Bắt chước Quốc Tổ làm theo Quốc Tổ là người có chí lớn. Tư tưởng lớn trong Chính Nghĩa không phải là tư tưởng xưng hùng xưng bá, đưa nhau vào con đường máu đổ đầu rơi, oan oan tương báo, nợ nợ đáo đầu, hận thù chồng chất như non như núi. Đó chỉ là tư tưởng của con người cuồng vọng háo danh, háo lợi, lợi dụng Chính Nghĩa phục vụ cho lòng tham vọng của mình, lòng tham vô đáy, vơ vét của cải, vơ vét quyền lực bao nhiêu cũng không đủ, trở thành kẻ Độc ác, Độc quyền, Độc tài, Độc trị mà nhân loại là nạn nhân của những con người này. *********
Hết phần 1 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 9. Long Hoa Mật Tạng Kinh, được coi như là Bộ Kinh đại giải thoát. Giải thoát đói nghèo, giải thoát tội lỗi, giải thoát nô lệ, giải thoát ngu si, giải thoát hận thù, giải thoát địa ngục, giải thoát sanh tử luân hồi.
Tu Thiền là gì? Nói một cách ngắn gọn dễ hiểu. Tu Thiền là làm cho tâm trí lắng yên, bình an, nhẹ nhàng thoải mái, hiệu quả của sự lắng yên tâm trí là làm phát sanh trí huệ, giống như ngọn lửa đang cháy hoặc lụn tàn, đổ thêm ngụm dầu làm cho ngọn lửa bừng sáng bốc lên cao.
Tu Thiền có hai cách: ĐỊNH sanh THIỀN và THIỀN sanh ĐỊNH.
Định: là tập trung tư tưởng vào một điểm cố định. Chú tâm lắng suy nghĩ, làm cho tâm trí yên lặng đó là Thiền.
Sơ Thiền: là thư giản buông thả tất cả, không vướng bận chi hết, lắng yên tâm thức bình an nhẹ nhàng, sự lắng yên Tâm Thức ấy gọi là Thiền sanh Định, cũng giống như ăn để sống, sống là do ăn Thiền sanh Định. Định sanh Thiền cũng vậy mà thôi, hể có Thiền thời sanh Định, hể có Định thời sanh Thiền. Như vậy Thiền Định là một phương pháp mật tạng vũ trụ, làm cho tâm trí bình an, nhẹ nhàng, tỉnh lặng, xoá tan đi những năm tháng lao tâm, lao trí mệt mõi. Cũng như dừng nghĩ không cho phát sanh nghiệp quả, nhất là nghiệp quả ác.
Nói về Thiền, thời có từng bật cao thấp khác nhau, thư giản dứt căng thẳng lo âu đó cũng là Thiền. Tiến sâu hơn nữa là buôn thả tất cả tâm hồn tỉnh lặng, Đạo Thiền. Tiến sâu hơn nữa, giác ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, an trụ Chân Tâm Chân Tánh, Chánh Đẳng Chánh Giác, tối thượng Thiền, Chánh Định, Tâm Hồn đã an trụ Chánh Định, thời coi như đã vào cảnh giới Cực Lạc.
Nói về tu thiền luyện khí, luyện Đạo, luyện Quyền, luyện pháp, không phải bây giờ mới có mà đã có từ khi con người ra đời, nếu nói con người ra đời đầu Tiên vũ trụ thời xa xưa lắm, không có số lượng nào ví dụ được, vô số vô biên. Còn nói gần thời con người ra đời trên quả Địa Cầu nầy, thời cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, trải qua gần 5 tiểu kiếp. Còn nói gần hơn nữa, tức là đầu tiểu kiếp thứ 9 người Hồng Hoang nguyên thuỷ, những người sống sót cuối tiểu kiếp thứ 8. Sống qua tiểu kiếp thứ 9.
Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời. Ở vào thời kỳ nhân loại đã tiến hoá trên đà văn minh ý tưởng khắp đó đây, khắp vùng phương Đông đã có trên 60 giáo phái, mỗi giáo phái đều có sở trường khác nhau, nhưng nói chung mục đích là đưa con người đạt đến đỉnh cao, xưng hùng xưng bá thống trị Thiên Hạ.
Nói đến Thiền Định, thời mỗi giáo phái đều có cách tu thiền luyện Định, ở bước đầu khác nhau như phái Thần Lửa. Định sanh Thiền. Ngồi xếp bằng nhìn vào ngọn nến cách đó không xa, tập trung tinh thần, chăm chú nhìn ngọn nến không chớp mắt, sau đó nhắm mắt lại và hình dung ngọn nến ở ngay điểm chính giữa hai chân mày, với phương pháp này, phái Thần Lửa Định tâm nhờ an trụ vào ngọn nến, nhờ định Tâm mà sanh Thiền. Thiền đã sanh thời Định tâm càng thêm kiến cố, tiến sâu hơn các tu sĩ, Đạo sĩ phái Thần Lửa này vận hành ngọn lửa Tâm Linh chạy khắp Châu thân, gọi đó là luyện Đạo, rồi ứng dụng ra quyền pháp, quyền thuật và đỉnh cao của giáo phái này là ngũ thông, lẩn quẩn trong cảnh giới của Địa Tiên.
Ở vào thời kỳ này có tới hơn 60 giáo phái như phái Thần Quyền, phái Luyện Chú, phái Tuyệt Thực, phái Hít Thở, phái Luyện Đan v.v… Đỉnh cao của các giáo phái này cũng không hơn được giáo phái Thần Lửa, cũng chỉ ở cảnh giới ngũ thông cảnh giới của Địa Tiên mà thôi. Nói chung các giáo phái ở vào thời kỳ ấy hầu hết là theo phương pháp, chú tâm vào một điểm nào đó để sanh thiền. Các giáo phái này còn mãi dò dẩm trong đêm tối, lẩn quẩn trong sanh tử, khó mà thoát khỏi luân hồi lục Đạo. Bị cái thấy, nghe, hay, biết của chính mình xây chuyển, khởi tâm chấp trước phân biệt khởi nghiệp liên miên.
Còn tu thiền sanh Định là lối tu khó hơn, như phái Du già sau này thành phái Tăng già, là do quán tưởng sanh Định. Sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến buôn thả hoàn toàn, không vướng bận chi cả, giãi toả cảm giác căng thẳng bận bịu vướng víu Tiến xa hơn nữa là dứt lần dục niệm, cội căn gốc rễ của mọi tội lỗi lầm cho tâm hồn trở nên trong sáng an lạc. Nhờ vào ý thức giác ngộ định tâm trở lại gọi đó là Thiền.
Nói tốm lại sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến lúc buôn thả hoàn toàn giãi toả cảm giác căn thẳng yên tỉnh sâu lắng thanh thoả tâm hồn. Đó là Thiền, nhờ công năng của Thiền. Định tâm trở lại, Thiền sanh Định. Tiến xa hơn nữa. Nhờ định tâm trở lại phát hiện những cái mà xưa nay mình không nghĩ tới. Có thể nói là lầm đường lạc lối sanh tâm nhàm chán, mãi chạy theo vô thường biển khổ lúc nào cũng căn thẳng mệt mõi và kết quả cũng chỉ là con số không. Tâm hồn sa đoạ, tương lai mờ mịt. Nhìn cảnh xô bồ vật lộn với đời. Đấu đá nhau dẫn đến lưỡng bại câu thương. Chạy theo dục vọng thấp hèn xa rời Đạo Đức, làm suy thoái truyền thống Đạo Đức Cha ông đúng là khổ, càng nghĩ càng sanh nhàm chán, sự nhàm chán ấy gọi là Thiền. Nhàm chán càng mãnh liệt, thời Định Tâm càng kiên cố bấy nhiêu. Và cứ thế Định Tâm càng lớn thời trí huệ càng tăng. Trí Huệ càng tăng, thời giác ngộ càng cao. Giác ngộ càng cao, thời Thiền trở nên kiên cố. Thiền trở nên kiên cố, thời Định Tâm vững như núi như non. Trí huệ trở nên Thánh Thiện. Tối cao của trường phái này là đạt đến cảnh giới Thiên Tiên chứng lục thông đang đà đi trên con đường giải thoát. Nhưng đối với Văn Hoá Cội Nguồn thời còn xa lắm đối với các trường phái này, huống chi các trường phái Thần giáo. Bà La Môn giáo thời còn xa vời vợi Văn Hoá Cội Nguồn hơn nữa.
Còn tu Thiền của Thái Tử là sự tu Thiền của Đấng Đại giác ngộ, không có một phái nào sánh kịp. Tu Thiền luyện khí của phương pháp tối thượng Thừa, của bật Chánh Đẳng Chánh Giác Đấng cứu thế. Theo nguyên lý sự sống con người vật chất nuôi thể xác. Đạo lý nuôi Linh Hồn. Theo quan niệm cuộc sống những lý luận xa vời thực tế thiếu khoa học, sẽ làm cho Linh Hồn lụn bại ngu xuẩn làm hại mình hại người. Ở đời ai cũng biết vật chất nuôi thế xác, nhưng vật chất đó tạp nhiểm chất độc hoặc ít hàm lượng chất bổ, thời kết quả sẽ ra sao khi ta ăn hoặc uống những vật chất tạp nhiểm chất Độc đó. Có phải những vật chất độc hại ấy làm cho cơ thể ta nhiểm Độc theo phát sinh bịnh tật gầy yếu mất sức. Còn ngược lại vật chất trong sạch, không nhiểm Độc, lại dồi dào chất bổ. Sẽ làm cho cơ thể ta khoẻ mạnh lạc quan yêu đời.
Như ta đã biết vật chất dưỡng nuôi thể xác Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Chúng ta tiếp thu Đạo lý trong sáng, sẽ làm cho Tâm Hồn trong sáng Thánh Thiện. Vì Đạo là món ăn tinh Thần của Linh Hồn. Đạo Lý nói ra thì nhiều nhưng tốm lại thì có hai mà thôi. Ác và Thiện, Phi Nghĩa và Chính Nghĩa. Người tu thiền luyện khí càng lên cao thời Tâm Hồn càng hướng về Chính Nghĩa, xa cuồng loạn, thời hợp lẽ trời thuận Thiên mệnh. Nhờ thuận Thiên mệnh, muôn phước vạn lành theo cuộc sống hiện ra và tiến tới tu Thiền luyện khí của bậc đại giác ngộ.
Bằng ngược lại tu Thiền luyện khí lên cao tham cầu dục vọng xa rời Chính Nghĩa. Cuồng loạn tà Tâm, thời hậu hoạ không biết đâu mà lường. Theo lẽ người tu Thiền luyện khí kéo dài tuổi thọ nhưng vì Tâm Hồn hướng về nẻo ác phi Nghĩa. Cơ thể không dung hoà được Thuỷ, Hoả, Phong, trong nội thể. Nặng thời tẩu hoả nhập Ma, Tâm Hồn trở nên điên loạn ác độc tàn bạo vô cùng, đi lần đến sự huỷ diệt. Nhẹ thời suy tim, suy gan, suy thận, giảm đi tuổi thọ.
Thường tu Thiền luyện khí, thời phải nương theo cảnh quang trong lành, thanh vắng yên tỉnh, sẽ làm cho tâm hồn dễ định tỉnh hơn, chỉ trường hợp những bật Đại giác ngộ đã chứng quả Ba La Mật. Hội ngộ Chân Tánh, Thật Tánh, Thật Tướng, Thật Pháp, Thiên Tạng, Luật Tạng, Pháp Tạng vũ trụ như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Thời dù ở chỗ nào Thân Tâm vẩn thường thanh tịnh không tu không chứng không đắc gì cả, tuỳ nhân duyên sanh ra đời cứu thế mà thôi. Như Quốc Tổ Vua Hùng chẳng hạn, và còn không biết bao nhiêu vị đã xuống thế, hộ trì giữ gìn Văn Hoá Thiên Ấn, Thiên Bút Cội Nguồn.
Tu Thiền luyện khí là mật Tạng vũ trụ, đưa Hành giã trở lại Cội Nguồn. Quả của tu Thiền là an lạc tâm hồn trí huệ sáng soi. Quả của luyện khí là sức khoẻ dồi dào tăng thêm tuổi thọ. Tu Thiền luyện khí là Mật Tạng linh hồn, làm cho các giác quan khai mở linh hoạt nhậy bén, thông minh kỳ lạ, Thấu suốt quá khứ vị lai, khám phá ra nhiều điều kỳ thú, tiến tới cảnh làm chủ bản thân, làm chủ Tâm Linh, làm chủ vũ trụ.
Đỉnh cao của tu Thiền là nhận ra bộ mặt thật của Linh Hồn. Minh Tâm Kiến tánh làm chủ Chân Tánh, làm chủ giác Tánh, tiến tới ngôi vị Chánh Đẳng Chánh Giác, vào cảnh giới vi Diệu thậm thâm, không thể suy nghĩ hay luận bàn được nữa.
Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử, không giống các Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái thời đó. Dò dẫm từng bước và mỗi bước tu Thiền luyện khí, xuất hiện nhiều sự lạ cho rằng chứng Đạo hay đắc Đạo.
Thái Tử vượt qua những chứng đắc chấp trước này của các Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái, tiểu thừa, trung thừa. Thái Tử nói. Mỗi tâm Linh từ bản thể Linh giác vũ trụ đi ra, khi trở về bản thể mỗi đoạn đường là mỗi mùa xuân. Do mật Tạng tâm Linh hiện ra mà thôi, không có gì mới mẻ cả.
Các giáo sĩ, Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái, vì không hiểu Mật Tạng Tâm Linh, Thức tánh, Chân tánh của mình, có những công năng diệu dụng như vậy, chẳng khác nào kính được lau chùi sáng ra mà thôi. Cũng giống như người lực sĩ bị trói, làm giảm đi sức mạnh cũng như tài năng của mình. Tu Thiền luyện khí chính là phương pháp mở trói, khi trói đã được mở thời người lực sĩ tung bay thể hiện tài năng thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi nất thiền là mỗi lớp mở trói, mở trói cho đến khi không còn trói buộc bất cứ điều gì, thật sự tự do, thật sự giải thoát, thời liền nhận ra chân Tánh bộ mặt thật bí mật của Tâm Linh. Ông Tổ của muôn loại Thần Thông. Quyền năng vô hạn, ra khỏi sanh tử ở mãi ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác, tuỳ nhân duyên trở lại phàm trần cứu đời độ thế mà thôi.
Các Đấng Đại Giác này từ Cội Nguồn đi ra rồi trở về Cội Nguồn một cách an toàn. Nói chung tất cả Tâm Linh cũng từ Cội Nguồn đi ra nhưng vì bị trói trong nghiệp lực. Lại quên mất đường về, bị vô minh che lấp Chân Tánh của họ. Nhìn thấy cảnh bị trói trong nghiệp lực, lại quên mất đường về Cội Nguồn, thọ lảnh đủ quả khổ, vì thương nhân loại Đức Chí Tôn mới xuống trần, mở đường chỉ đường cho nhân loại, trở về Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh giác ngôi nhà chung vũ trụ. Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần sanh ra từ bụng mẹ như bao nhiêu người khác. Nhưng ý chí, trí huệ, lòng từ bi thời khác hẳn người phàm, rồi trở thành Đấng Cứu Thế.
Trên bước đường trở về vũ trụ. Thái Tử không đi trên con đường tiểu thừa mà đi trên con đường Đại Thừa, Thượng Thừa, tối Thượng thừa. Không đi trên con đường Tiểu Đạo mà đi trên con đường Đại Đạo. Con đường Tự Do Đại Đồng Bình Đẳng. Chủ Nghĩa Đại Đồng chính là Văn Hoá Cội Nguồn. Không phân biệt Tôn giáo, Đảng phái, Chủng tộc, màu da, sang hèn, thiện ác. Ai đi trên con đường Đại Đạo Đại Đồng thượng thừa này, cứ mỗi bước chân là mỗi bông Hoa hạnh phúc, mỗi nấc thang là mỗi tầng mùa xuân.
Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử là phương pháp tối thượng thừa, phá vở nhân duyên nghiệp lực, cỡi bỏ phiền não nhanh chóng. Làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, tiến tới làm chủ vũ trụ, để rồi trở thành Đấng Cứu Thế, đưa nhân loại tới bến bờ giải thoát. Phát huy Chân Tánh an trụ vào cảnh giới Đại Đồng, muôn ý thành một ý, muôn Tánh thành một Tánh, sức mạnh Tâm Linh, ý chí Tâm Linh, ánh sáng Tâm Linh bộc phát dữ dội, phá vỡ vô minh nhanh chóng. Chúng ta nên lưu ý, mỗi tâm Linh con người là cả một thế giới Tánh Linh trong đó, có thể nói có tới 8 muôn 4 nghìn Tánh Linh, mỗi Tánh Linh có vô lượng Tánh Linh đồng chủng của nó. Ví dụ Tánh Tham, không phải chỉ có một tánh tham mà có vô lượng vô biên tánh tham đồng chủng tánh của nó. Tánh sân hận, Tánh ngu si, Tánh ngạo mạn, Tánh Đa nghi, Tánh bảo thủ, Tánh ganh ghét, mỗi Tánh đều có vô lượng vô biên tánh đồng chủng tánh với nó. Mỗi tâm Linh con người là cả một Vương Quốc Tánh Linh và chỉ có Chân Tánh mới có đủ khả năng làm chủ Vương Quốc Tâm Linh đó mà thôi. Còn 8 muôn 4 nghìn tánh do ý thức phân biệt khởi tạo ra đều là giã tánh, nên mỗi sở tánh trong tâm, không đủ quyền lực thống nhất Vương Quốc Tâm Linh mà chỉ có Chân Tánh mới đủ khả năng đó.
Mỗi Vương Quốc Tâm Linh của mỗi con người khi Chân Tánh chưa xuất hiện, thời Vương Quốc Tâm Linh đó thường hay đảo lộn, lúc thế này, lúc thế kia vì không có Tánh chủ Tánh. Cũng như một đất nước không Vua, thế lực nào mạnh tạm thời thế lực đó làm Vua mà thôi, hết phước hết lực, thời thế mạnh hơn, khác tánh lên thay vậy, cứ thế lặp đi lặp lại mãi điên đảo. đảo điên luân hồi vạn nẽo.
Kết luận Vương Tánh chính là Chân Tánh mà Chân Tánh là chủ của 8 muôn 4 nghìn chủng Tánh, chủng Tánh chính là sở Tánh, sở Tánh sanh ra do Chân Tánh, lúc còn mê gọi là vô minh, Chân Tánh vọng chấp phân biệt tạo khởi ra vô lượng thức tánh vô minh, ví như nước khởi tạo ra bọt nước, nước thời chỉ có một nhưng bọt nước thời nhiều. Dứt mê chấp gọi đó là Ngộ. Chủng tánh, sở tánh biến mất, trở về Chân Tánh, bọt nước tan biến trở về là nước. Vương Tánh, Chân Tánh xuất hiện liền làm chủ Vương Quốc Tánh Linh của mình. Mỗi Niệm của Vương Tánh, Chân Tánh là mỗi Niệm giác tha, giác hạnh làm cho Vương Quốc Tánh Linh Chủng Tánh. Hội Ngộ hội nhập thống nhất thành một khối tự do, Độc Lập, Bình Đẳng. Đại Đồng.
Nhờ sự thống nhất muôn vạn thức tánh trở về một tánh chính là Chân Tánh, muôn ý trở về một ý. Nhờ thống nhất vương quốc Tâm Linh, nên Tâm Linh của Thái Tử trở nên mạnh mẽ phi thường dồn hết sức lực vào cảnh giới tu Thiền luyện khí nên tốc độ thành tựu nhị xác thân mau chóng không có mấy người tu hành theo kịp.
Đáp: Đó là niệm của Chánh Đẳng Chánh giác do Chân Tánh phát ra, không những mỗi niệm có hiệu lực diệt vô lượng phiền não tội ác, còn có sức mạnh phá vỡ Địa Ngục sanh tử, hàng chục vô lượng vô biên chủng tánh sở tánh trong tâm. Chân Tánh là tánh tự nhiên. Tánh không Tánh, cũng là một thứ Tánh trong sạch vô vi mỗi niệm tánh này. Là mỗi niệm Chánh giác, diệt vô lượng vô biên phiền não, vô lượng vô biên tội ác, làm cho thế giới tâm Linh trong tâm trở nên trong sáng, phát sanh Công Đức không thể nghỉ bàn. Tánh thanh tịnh, ý thanh tịnh, trí thanh tịnh, cảnh giới tu Thiền trong tâm thức đã bước sang giai đoạn Đại Đồng, giai đoạn Tâm Tánh, ý thức, trí thức hợp nhất, liền hiển lộ Thần Thông. Giống như người lực sĩ tự mở sạch trói liền phát huy tác dụng sẵn có của mình. Như kính lau sạch bụi thời tất cả điều hiện rõ trong đó. (Minh Tâm Kiến Tánh).
Linh Hồn con người đã trải qua vô lượng ức kiếp, mỗi kiếp ví như mỗi gon tàu nối dài vô tận, thành một chuỗi nhân duyên, từ quá khứ đến hiện tại, kiếp hiện tại là Đầu Tàu. Một phần tác động bởi nghiệp lực quá khứ, một phần do dục vọng ý thức trì níu cảnh giới hiện tại lao thẳng về trước, gieo mầm Thiện, ác kết quả nhân duyên nghiệp lực, luân chuyển trong ba đường sáu nẽo. Lên thiên Đàng hay xuống Địa ngục đều kết tập nhân duyên ở kiếp hiện tại này.
Thái Tử vì quá hiểu rõ như vậy, nên mở đường cho nhân loại trở về Cội Nguồn, sống trên Thiên Đàng Cực Lạc. Nhờ hội Ngộ Chân Tánh sớm. Mặt Trời trí huệ của Thái Tử sáng soi, nên tu Thiền luyện khí thành tựu nhanh chóng. Các giác quan phát huy tác dụng hiển lộ Thần Thông. Tai, mắt, nghe, thấy khắp Địa Cầu, lần lần đến các Cung Trời.
Theo như các Đạo sĩ, Tu sĩ, giáo sĩ cho đây là chứng Đạo, thành Đạo, Đắc Đạo. Thái Tử thời lại khác, đây là chuyện bình thường không có gì lạ cả. Nên Thái Tử thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe, không khỡi ý tưởng phân biệt Thân tâm luôn luôn thanh tịnh. Vì Thái Tử hiểu rõ thật Tướng vũ trụ là không tướng, thật Tánh vũ trụ là không Tánh, thật sắc vũ trụ là không sắc. Những cảnh giới Thiên Đàng. Trần gian, Địa Ngục là do Âm Dương phân định, nhân duyên kết tập, Thiện, Ác, Mê, Ngộ phân ngôi phước hoạ luân phiên quả, không có chi là lạ cả, còn duyên thì nhóm hết duyên thì tan. Còn phước thì giàu sang, Quyền thế, hết phước thời nghèo khó, nói chẳng ai nghe, vô thường chuyển đổi có gì mới mẻ đâu, làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, làm chủ vũ trụ đó là việc nên làm.
Tìm ra con đường cứu thế đáng quan tâm. Thái Tử hiểu rõ, con đường cứu thế không ở cõi trời, không ở nhân gian, không ở Địa Ngục mà ở ngay tâm Hồn của chính mình, Chân Tánh của mình tiến tới làm chủ vũ trụ, sống tự do Bình Đẳng, trong cảnh giới Đại Đồng an lạc hạnh phúc không còn sanh tử nữa. Cảnh quan vũ trụ đã hiện ra trước mắt nhưng Thái Tử không chú ý mà chỉ chú tâm tu Thiền luyện khí mà thôi. Càng tu Thiền luyện khí càng thấy cơ thể nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên không, điều này cũng không có gì là khó hiểu. Theo Nguyên lý vũ trụ. Lực ép Khí, Khí ép Nước, Nước ép đất. Hay nói một cách khác. Thể Lực ép Thể Hơi, Thể Hơi ép Thể Lỏng, Thể Lỏng ép Thể Đặc, cũng vì theo nguyên lý tự nhiên trên, Trái Đất không dễ gì nổ tung được. Khi nào lực vũ trụ yếu đi, thời Trái Đất sẽ nổ.
Thân thể con người là Tứ Đại giả hợp Đất, nước, gió, lửa mà phần hơi ấm của con người, Thể Đặc là chính nên con người dù đang sống trên mặt Địa Cầu, không bị tung bay ra không gian với tốc độ quay của nó. Biết rằng với tốc độ quay của nó đã tạo ra lực hút nhưng không đáng kể so với lực ép vũ trụ. Thể Đặc bị Thể Lỏng ép, Thể Lỏng bị Thể Hơi ép, Thể Hơi bị Thể Lực ép. Mà con người là một khối Thể Đặc, thời không cách gì bay ra khỏi mặt Địa Cầu, muốn bay ra khỏi địa cầu phải hiểu bộ máy huyền vi của vũ trụ, điều khiển chúng và làm chủ chúng.
Hay nói ngược lại, Thể Lực hút Thể Hơi, Thể Hơi hút Thể Lỏng, Thể Lỏng hút Thể Đặc, sự hút, ép đó không phải do Thể Lực tự chủ mà do Thể Chủ của Thể Lực. Nói về Thể Chủ của Thể Lực vũ trụ chính là bản thể Linh giác của Tổ Tiên. Bản thể rộng lớn khắp hư không tác Động thành lập vũ trụ. Duy trì sự sống vũ trụ.
Nói về sự sống con người là do sự phản tỉnh máy động Căn Thân Huệ Mạng Linh Hồn, Linh Hồn con người, duy trì sự sống con người qua trung gian thể lực và chân khí. Căn Thân Linh Hồn theo sự nhận biết thu hút vật chất tác động qua Thần Lực. Như Thái Tử tu Thiền luyện khí là do Linh giác Thái Tử chủ trì. Tốm thâu vô cực. Thái Cực Chân nguyên vũ trụ. Chân Khí - Tinh Khí Thể Hơi - Thể Lỏng vũ trụ tích tụ vào cơ thể. Sức mạnh Thần Thông cứ thế tăng lần lên. Đạt đến cảnh giới, Di sơn Đão Hải. Từ sức mạnh con người trở thành sức mạnh vũ trụ. Không những Thái Tử hiểu rõ sự hình thành của Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc mà còn hiểu rõ sự tiến hoá, cũng như móc xích liên hoàn ép, hút của nó. Mà các thể trung gian luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn như Thể Hơi Chân Khí vũ trụ không những là trung gian của Thể Lực và Thể Lỏng bao bọc xung quanh Trái Đất, bảo tồn sự sống cho quả Địa Cầu. Mà còn rất quan trọng trong thể xác con người, luyện khí càng nhiều sức lực càng mạnh, luyện khí càng cao thi thể càng nhẹ nhàng, làm giảm đi sức ép vũ trụ, tự nổi lần lần giống như bong bóng sắt chìm mãi ở đáy nước, bổng được bơm hơi vào tự nổi lần lên. Bong bóng tự thấy mình càng lúc càng nhẹ nhàng vì không khí bơm càng lúc càng nhiều vào cơ thể bong bóng.
Nói tốm lại. Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đều có sự co giãn của nóng lạnh, ép, hút, lực vũ trụ, nhất là Thể Lỏng Thể Hơi có Lực đẩy phản hồi rất mạnh, chống lại Lực ép vũ trụ, không những thế, Thể Hơi Thể Lỏng tự phân định nổi chìm, nặng nhẹ khác nhau.
Giữa các tiểu kiếp, lớp Chân Khí bao bọc trái Đất dâng cao 8 muôn 4 nghìn lớp chia làm 3 phần, Thượng, Trung, Hạ. Thượng có 3 phần, Thượng Thượng - Thượng Trung - Thượng Hạ, Trung Thượng - Trung Trung - Trung Hạ, Hạ Thượng - Hạ Trung - Hạ Hạ.
Nói chung Thể Hơi gồm 3 phần, chín Địa Khí như thế, tự do phân định thứ lớp, non nhẹ thời nổi lên trên tiếp giáp với chân không vũ trụ, còn khí già thì bị ép chìm xuống tiếp giáp mặt đất. Lớp khí già là lớp khí chuyển sang Thể Lỏng Hơi Nước rồi từ hơi nước chuyển thành nước. Ba muôn lớp khí già tiếp giáp với mặt Địa Cầu, khí nóng là hơi, khí lạnh là nước. Nhất là mười nghìn lớp khí già, bị lực vũ trụ ép chìm xuống mặt Địa Cầu, khi nóng bốc hơi tạo thành cả nghìn lớp mây, khi lạnh liền chuyển thành nước rơi xuống mặt Đất gây ra lụt lội. Nhất là gần cuối tiểu kiếp gây ra các trận Đại Hồng Thuỷ, gây kiếp nạn cho nhân loại con người.
Thái Tử khi thành Chánh quả thuyết giáo nói rằng. Nhân Loại hiện nay ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp, chỉ còn 10 nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9, chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, ba tần chín địa lớp khí già này càng về sau càng thái chuyển thành nước, làm cho nước biển càng về sau càng dâng cao, gây ra những trận Đại Hồng Thuỷ diệt vong sự sống con người, nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, không chỉ là nước biển dâng cao và các trận Đại Hồng Thuỷ không đâu. Mà còn có cả Hoả, phong, nhiệt độ nóng lạnh tăng cao bão lớn mà còn có cả Động Đất liên miên, huỷ diệt nhân loại con người. Những ai còn sống sót chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, trở thành người Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai.
Ở vào thời kỳ Thái Tử ra đời, ba muôn lớp khí non, hầu như cạn kiệt biến mất, chỉ còn lại mờ nhạc rất hiếm. Ở vào thời kỳ con người dần dần nặng nề, con người tu thiền luyện khí, kết tụ nhị xác thân tinh khí thần, hầu như không đạt được đỉnh cao thường thường là chỉ ở vào cảnh giới của Địa Tiên ít ai đạt đến cảnh giới của Thiên Tiên. Lớp khí non là Thái Lực Chân Nguyên, Tiên Thiên Chân Khí, lớp khí này hầu như biến đi cạn kiệt gần hết, chỉ còn lớp khí già dày đặc Hậu Thiên Chân Khí.
Hậu Thiên Chân Khí hay còn gọi là Địa Thiên Chân Khí. Ở vào thời kỳ này người tu thiền luyện khí khó có người tu luyện thành nhị xác thân Tiên Thiên mà chỉ tu luyện thành nhị xác thân Hậu Thiên, Địa Thiên mà thôi. Nên khó đạt đến cảnh giới thượng thừa, ngang tầm với Thiên Tiên được. Nhưng Thái Tử thời lại khác, vì Thái Tử chính là Đức Chí Tôn đầu thai, đã trải qua vô lượng kiếp tu hành thanh tịnh, khí Tiên Thiên lúc nào cũng tích tụ nơi tâm Hồn Thái Tử.
Căn Thân Huệ Linh Hồn Thái Tử là Căn Thân Huệ Mạng Chánh Đẳng Chánh Giác Nên hào quang nơi Tâm Thái Tử lúc nào cũng sáng soi khắp cùng Trái Đất. Hay nói một cách dễ hiểu, Tâm Hồn Thái Tử lúc nào cũng tràng đầy tìm lực, ẩn tàng khí Tiên Thiên mà không phải người nào cũng có.
Thái Tử thu nạp Chân Khí vũ trụ, hội tụ ở Đan Điền, để cho Âm khí Dương khí giao hoà với nhau kết sanh nhị xác thân. Nhị xác thân hình thành tới đâu, thời ngũ thông hiển lộ tới đó, Thái Tử càng lúc càng thấy những thứ, người thường không thể nào thấy được, tai Thái Tử nghe những tiếng mà người thường không thể nào nghe được, Thái Tử cảm nhận sự biến đổi trong đời sống xã hội mà người thường không thể nào cảm nhận được.
Thái Tử giờ đây đã thấy rõ nhân loại, nhân gian phàm trần, đang sống trên biển nước loãng, tức là phần khí già bao bọc xung quanh quả đất. Còn nước biển Đại Dương hay ở sông hồ, đó chẳng qua là do biến động của Âm Dương, nóng, lạnh, làm cho Thể Lỏng ở dạng lúc là nước, lúc là khí. Không những thế Thái Tử còn thấy rõ, ngoài quả Địa Cầu này ra còn 4 quả Địa Cầu khác, có nhân loại phàm trần đang sanh sống đông đúc, nhưng sự thấy này không phải là mục đích, mục tiêu mà Thái Tử đang tìm.
Thái Tử đang tìm là tìm Văn Hoá Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ Chủ Nghĩa Đại Đồng, mở đường cứu thoát nhân loại. Đây mới chính là mục tiêu, mục đích của Thái Tử, vì vậy Thái Tử cần phải nổ lực nhiều hơn nữa đạt đến đỉnh Quả trí huệ cao nhất, mới đủ khả năng mở ra Văn Hoá Cội Nguồn Thiên Đạo Thiên Ấn vũ trụ. Vì thế Thái Tử vẩn tiếp tục tu thiền luyện khí, kết hợp với ăn Chay, hầu mau đạt đến kết quả, nhìn Thái Tử hiện giờ da thịt mịn màng hồng hào phát sáng làm tăng thêm vẻ uy nghi tuấn tú. Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử như hiểu ra một điều, không có sự nổ lực nào mà vô ích, nhất là sự nổ lực vì Nhân Loại lại càng cao quí hơn nữa, làm cho sức mạnh tinh thần trở nên Đại Hùng Đại Lực, Đại Từ Bi, Đại ý chí đạt đến cảnh giới phi thường. Mỗi niệm của Thái Tử là mỗi niệm chuyển Thiên Hạ về Trời.
Mọi vạn vật sanh tạo ra đều có nguồn gốc nhân duyên nghịch, thuận của nó, cũng như đất - nước - gió - lửa, Thể Lực - Thể Hơi - Thể Lỏng - Thể Đặc, nguồn gốc nhân duyên sanh ra nó. Theo nguyên lý vũ trụ hể cái gì có sanh, thời phải chuyển hoá, từ dạng này sang dạng khác và cuối cùng bị huỷ diệt trở về chân không.
Nơi vũ trụ có một bản thể không sanh diệt đó là bản thể Linh giác vũ trụ hay còn gọi là bản thể Linh giác tối thượng Tổ Tiên, bất tăng, bất giảm. Không cấu nhiễm, trong sạch vô vi, thường còn mãi mãi, không sanh ra cũng không diệt đi, trước sau như một, như như thường còn, không có sự khởi đầu nên không có sự chấm dứt. Vô lượng thọ.
Chính bản thể Linh giác vũ trụ vô lượng thọ này, Tịnh thời sanh Lực, Động niệm thời sanh thức, đây là một quy luật không thay đổi, Linh giác vũ trụ an trụ Đại Định, thời sanh ra Thần Lực vũ trụ. Thần Lực sanh ra một thời gian liền chuyển đổi, trẻ, trung, già, tử. Tử là chuyển đổi qua dạng khác. Chẳng hạn, lực già chuyển ra khí, khí già chuyển ra nước, nước già chuyển ra lớp bụi phù sa vũ trụ rồi trở thành Đất, làm tăng thêm sự sống cho thế giới Thực Vật cũng như thế giới Động Vật.
Người tu Thiền luyện khí, thời phải hiểu rõ chu kỳ kết tinh, chu kỳ giao hợp chuyển hoá của Trời, Đất. Nói về ngày, đêm. Ngày là Dương, Đêm là Âm, theo quy luật của Tạo Hoá. Dương non, dương già không kết tinh mà chỉ kết tinh ở giai đoạn trung Dương mà thôi. Thời điểm kết tinh hoàn hảo nhất trong ngày là giờ Ngọ. Âm cũng thế, âm non, âm già không kết Dịch mà Kết Dịch vào giai đoạn trung âm, đỉnh cao của sự kết Dịch đó là vào giờ Tý. Còn Mẹo - Dậu là giờ chuyển giao âm Dương, vạn vật sanh sôi nẩy nở tiến hoá từ đây. ÂM - DƯƠNG kết tụ Tinh - Dịch rồi giao nhau tiến hoá, bồi đắp sự sống sinh sôi sự sống, cả nghịch lẫn thuận, cả sinh lẫn tử. Tinh, Dịch vũ trụ của thể hơi, khí, thể lỏng, nước, thể đặc, đất. Phần lớn là do hơi ấm vũ trụ tác động mà thành.
Sự kết Tinh - Kết Dịch ba thể như sau. 1: Thể Đặc: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hoá chuyển hoá ở Mẹo - Dậu giao thời giữa ngày đêm. 2: Thể Lỏng: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hoá chuyển hoá ở Mẹo - Dậu ở tháng. 3: Thể Hơi, khí già: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hoá chuyển hoá ở Mẹo - Dậu ở năm.
Cứ 3 năm tu thiền luyện khí là một nất thang tiến hoá lên. Tu thiền luyện khí đến 9 năm thời nhị xác thân bắt đầu hình thành, luyện tới 12 năm 1 giáp thì thành nhị xác thân. Nếu tu thiền luyện khí nửa Hoa giáp 30 năm, thời sẽ đạt đến Ngũ Khí Triều Nguyên, thêm 30 năm nữa đúng một Hoa giáp 60 năm, thời sẽ đạt đến Tam Hoa Tụ Đỉnh, nhị xác thân theo ý tưởng biến hoá vô cùng. Nói thời nói thế, như Kinh Dương Vương tu thiền luyện khí hơn 70 năm vẫn chưa thành còn ở giới pháp thuật thần thông hạn hẹp, đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân như tên bắn, Thần Lực theo ý tuôn ra thành chưởng lực. Nhưng Thái Tử thì lại khác, vì Thái Tử hiểu rõ quy luật tu Thiền luyện khí, cũng giống như người bơi rành, người mới tập bơi sự tu Thiền luyện khí ở cấp thượng thừa. Thái Tử là Ông Tổ của tu Thiền, chỉ trong vòng hơn 3 năm đã đạt đến cảnh giới Tam Hoa Tụ Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên, tiến lần đến cảnh giới Thần Thông Quảng Đại. *********
Hết Phần 2 chương 9 mời xem tiếp phần 3 chương 9 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh tối mật hàng triệu triệu năm mới xuất hiện, nếu không phải đã tu vô lượng kiếp thờ Trời thời không dễ gì gặp được bộ kinh nầy. Bộ Kinh tối cao của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Là báu vật Vũ Trụ quý hiếm đến nỗi luận bàn trăm nghìn kiếp cũng không thể nào hết được. Ngâm nga vài chữ kệ kinh Siêu sanh thượng giới đăng trình cung mây Kinh nào hơn được kinh đây Mật Kinh vũ trụ tối cao đất trời Chỉ cần ca ngợi một lời Giàu sang phú quí, cõi Trời khó chi.
Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử mới hiểu rõ thêm, sự tồn tại vũ trụ có động có tịnh tuần hoàn tiến hoá, để hoà hợp nhị xác thân cùng xác thân là một, thời phải luyện tập thể chất. Quyền pháp, thể dục, thể thao, thời kinh mạch huyệt Đạo lưu thông, thân thể cường tráng, cơ bắp rén cứng, sức lực bền bỉ, đẩy lùi tất cả bệnh tật dù cho đó là những bệnh nan y khó chữa trị.
Thái tử nhớ lại 108 động tác với những tư thế rất khó tập, dùng để rèn luyện thể lực cơ bắp, khai thông huyệt Đạo, lưu thông khí huyết, tôi luyện ý chí, đối diện quân thù.
Kinh Dương Vương thường dạy Thái Tử, con muốn đạt đến đỉnh cao của bật Tôn sư thời con phải tu luyện Quyền pháp, thập bát môn võ nghệ, còn phải siêng năng luyện tập 108 thế thức thần công, nhờ vào những thể thức khó tập này sẽ làm cho con cơ thể rén chắc dẽo dai và sức chịu đựng cao, nhanh nhẹn, Động - Tịnh vững vàng. Muốn đạt đến đỉnh cao của Thần Quyền, thời con phải tu tập đến đỉnh cao của 108 thế thức Thần Công. Muốn tu tập đỉnh cao 108 thế thức Thần Thông, thời con phải biết tu Thiền luyện khí, có tu Thiền luyện khí, thời khi luyện Thần Quyền, Đạo thuật, Kiếm thuật, Quyền thuật, chưởng pháp, kinh công, mới đạt đến cảnh giới Thân - Pháp - Ý hợp nhất, xuất thần nhập hoá, thời con đối mặt với kẻ thù, không còn lo sợ gì nữa, con như những đỉnh núi cao mà kẻ thù nhìn thấy phải khiếp sợ. Ngay như cha đây hơn 70 năm tu luyện cũng không đạt đến cảnh giới ấy.
Nhưng Kinh Dương Vương nào có hiểu, nếu tâm ý chưa rốt ráo thanh tịnh, thời dù có tu luyện đến trăm năm, nghìn năm cũng ở mức hạn nào đó mà thôi, khó mà tiến xa hơn được nữa, cũng như con người thường tục sanh ra biết ngồi, rồi đến biết đi, biết chạy. Nhưng biết bay phải mọc ra đôi cánh, tu Thiền luyện khí cũng vậy, muốn đạt đến đỉnh cao phải hội ngộ Chân Tâm Chân Tánh.
Thái Tử nghĩ, muốn đưa xã hội đến đỉnh cao Dân Giàu Nước Mạnh, Thời phải thấu hiểu căn cội vật chất (văn minh vật chất) làm chủ tinh thần đi vào tinh hoa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng văn minh. Và cũng không còn con đường nào khác hơn là toàn dân biết tu dưỡng Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức (văn minh tinh thần).
Muốn cho cơ thể ít bệnh tật khoẻ mạnh, không còn con đường nào khác hơn là cần phải lựa chọn chế độ ăn uống, siêng năng lao động, siêng năng luyện tập thể chất, thể lực, Quyền pháp, thể dục, thể thao, tu Thiền luyện khí. Muốn cho Đất Nước Tổ Quốc mãi mãi Thái Bình thịnh vượng không còn con đường nào khác hơn là phải xem Quyền con người làm trọng Nhân Quyền. Phải lấy dân làm gốc Dân Chủ và phát huy cái gốc của dân làm phát sanh Nội Lực, sức mạnh của toàn dân tộc Tinh Thần Lẫn Vật Chất. Và nòng cốt phát huy sức mạnh toàn dân tộc chính là phát huy truyền thống dân tộc, Văn Hoá Tối Cao Cội Nguồn. Văn Hoá Tối Cao Cội Nguồn chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp. Hiến Pháp,Luật Pháp. Đạo Pháp Chính Nghĩa là Hiến Pháp dựng nước, giữ nước, mở màn nhà nước Văn Lang, đi vào truyền thống anh linh dân tộc năm nghìn năm chủ quyền Độc Lập.
Lại thêm một năm nữa trôi qua, trừ các giờ luyện tập. Quyền pháp. Thân pháp cho máu huyết lưu thông, nội lực hùng hậu, còn các giờ khác, Thái Tử luôn luôn làm chủ phong bế giác quan, tu Thiền luyện khí. Thái Tử chuyên tâm thu nạp Chân Khí, những gì xung quanh, cũng không cần để ý đến, dù tai có nghe lên tận các tần trời, có nghe tận các tần Địa Ngục. Mắt có thể nhìn thấy những vật nhỏ nhất như vi khuẩn như thể không màu sắc như gió Điện lực vũ trụ, nhìn thấy Linh Hồn nhân loại chuyển kiếp đầu thai.
Sự thấy nghe hay biết ấy đã không giải quyết được gì tương lai cho đất nước hoặc giải thoát sự khốn khổ cho nhân loại con người. Nếu chìm đắm trong cảnh ngũ thông sanh tâm chấp trước phân biệt, vui buồn theo phân biệt, Thiên Đàng, Trần Gian, Địa Ngục, thời rơi vào Ma chướng ngay. Không thể nào đạt đến cảnh giới tối cao Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì chính mình bị cái Thấy, Nghe, Hay, Biết, Phân Biệt của chính mình xây chuyển, mất phương hướng làm chủ Chân Tâm Chân Tánh rơi vào Ma Chướng ngay.
Thái Tử chuyển tâm thu nạp dưỡng khí, thấy nghe hay biết khắp khắp cùng vũ trụ nhưng không khởi tưởng phân biệt chi cả, luôn luôn làm chủ, thấy, nghe, hay, biết, của mình.
Thấy nghe hay biết khắp cùng vũ trụ, khởi tâm nhận định phân biệt lúc này. Chỉ làm hại cho cuộc tiến xa hơn nữa, thấy, nghe, hay biết, khởi tưởng nhận định phân biệt lúc này, đã không giải quyết được gì. Lại rơi vào cảnh tối tăm biến hoá vô thường vũ trụ, chấp giả làm chân, thấy Rắn tưởng Rồng, thấy Ma tưởng Phật thời tai hại biết bao.
Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ đâu không thấy mà chỉ thấy Ma Đạo, Quỉ Đạo, Thần Đạo mà thôi, vì các Đạo này bị cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt xây chuyển chưa ra khỏi kiến chấp bảo thủ, còn nằm trong nghiệp quả luân hồi, đau khổ chồng chất như biển cả núi non, chỉ khi nào hội nhập Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hiểu rõ đi đến mục đích cuối cùng nhất định phải làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi Niệm Vô Niệm Tự Nhiên.
Những gì Đấng tạo lập lên tất cả, lập lên vũ trụ cùng con người và những định luật bất di bất dịch của Đấng ấy. Người tu Thiền Luyện Khí đạt đến đỉnh cao cần phải hiểu rõ. Truyền bá lại cho hậu thế, để cho hậu thế gặt hái, tiến tới làm chủ ý thức, làm chủ Linh Hồn, làm chủ vũ trụ. Làm Chủ Sanh Tử. Muốn sanh thời sanh, muốn tử thời tử tự tại.
Những lần luyện khí gần đây, Thái Tử nhận thấy trong cơ thể như có gì không ổn, hai dòng máu Nóng, Lạnh chống chỏi nhau mỗi ngày mỗi hiện rõ trong nội thể của mình. Hiện tượng này đã đánh thức Thái Tử thêm lần nữa, tu Thiền luyện khí chưa đủ để cho cơ thể tiến đến đỉnh cao mà còn phải làm cho Âm Dương hợp nhất, lưu chuyển thông suốt trong cơ thể con người.
Một xã hội tiến hoá cao, thời xã hội đó có nhiều cạnh tranh quyết liệt, những mâu thuẩn tiếp tục xảy ra trong xã hội, nếu không có cách giải quyết thời sẽ bùng nổ ra chiến tranh làm đảo lộn sự sống, cũng như thân thể. Thể xác Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, Tam Hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều dân, thời tiết bất xâm, bách Độc khó hại. Thần Lực - Khí Lực - Tinh Lực dồi dào, đáng lý ra thời không có chuyện gì xảy ra nữa nhưng không phải thế, trong nội thể tìm ẩn nóng lạnh xung đột lẫn nhau.
Điều nầy cho thấy rằng một đất nước đạt đến cảnh giới Văn Minh tối cao không phải là hết xung đột. Nếu mỗi người dân tự tách rời không đi vào quy luật chung xa rời Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Tự mình phá huỷ cái chung nghiêng về cái riêng thời sự xung đột lẫn nhau khó mà tránh khỏi.
Để giải quyết bài toán khó trong nội thể, làm bài học rút ra từ đây, sau này điều hành đất nước, tháo gỡ tìm ẩn xung đột cạnh tranh dung hoà một mối, tăng thêm sự hùng mạnh của đất nước. Thái Tử để hết tâm trí tập trung suy nghĩ quán nghiệm lại từ đầu đến cuối, vì sao có hiện tượng này xảy ra như vậy, nếu không tìm ra giải pháp hoá giải cứ theo đà này tu luyện, thời chính mình làm hại cho chính mình có khi còn nguy hiểm cho tánh mạng. Còn dừng lại không tu luyện nữa, thời Thiên Đạo Cội Nguồn sẽ không tìm ra, nhân loại mãi mãi ở trong cảnh tối tăm, chiến tranh sẽ bao trùm lấy họ, Tứ Nạn, Tam Tai sẽ diệt lấy họ.
Tứ Nạn: là Đói Nghèo lạc hậu, là Binh Đao máu lửa, chiến tranh loạn lạc, là Ôn Tai Dịch hoạ bệnh tật xâm hại, là thời tiết khắc nghiệt Động đất liên miên hết chỗ này sang chỗ khác.
Tam Tai: là Thuỷ - Hoả - Phong.
Loài người khó tránh khỏi 7 tai hoạ này, nếu không có cách tránh nó. Lượn theo nó, làm chủ nó thời khó mà tránh khỏi hậu hoạ.
Thái Tử là Đấng cứu thế, không những Thái Tử sẽ tìm ra giải pháp cứu thế mà còn hoá giải sự xung đột của các thế lực đang bành trướng trong cơ thể của Ngài. Cũng như các thế lực xung đột bành trướng nơi địa cầu.
Thái Tử nghĩ, thể xác con người là bộ máy tuần hoàn Tiểu Thiên vũ trụ, có cả Âm lẫn Dương, có cả Thượng lẫn Hạ, có hàng cả mấy trăm huyệt Đạo, mỗi huyệt Đạo là mỗi cửa ải giao thương các kinh mạch, mỗi kinh mạch là sự sống của hàng vạn tế bào, sự sống của hàng vạn tế bào thông ra mỗi đầu Lông. Hơn nữa Chân khí vũ trụ mà Thái Tử thu nạp bấy lâu nay, mỗi lúc mỗi dâng trào cuồn cuộn trong nội thể Thái Tử, tự nó phân định Âm Dương không chịu dung hoà với nhau, xung đột với nhau mỗi ngày mỗi thêm dữ dội lúc tu Thiền luyện khí. Thái Tử hầu như khám ra những điều hửu ích nữa đó là tuần hoàn. Tuần hoàn chính là tiến hoá của sự sống, con người vì xã hội, xã hội vì con người, con người vì cái chung, cái chung bảo vệ cái riêng, bảo vệ tuần hoàn chính là bảo vệ sự sống, bảo vệ sự sống cũng chính là biết vận dụng tuần hoàn Vận dụng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đi vào cuộc sống Dân bảo vệ Hiến Pháp. Hiến Pháp bảo vệ Dân. Cũng như người nông dân bảo vệ sự sống cây lúa, và chính sự sống cây lúa bảo vệ sự sống của người nông dân. tiến hoá xã hội đến dân giàu nước mạnh cũng chính là sự nhận thức về Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Tạng vũ trụ. (Xem Long Hoa Thiên Tạng sẽ hiểu rõ hơn) *********
Hết phần 3 chương 9 mời xem tiếp phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng.
CHƯƠNG 9
PHẦN 4
PHĂNG LẦN GỠ RỐI.
Sự hình thành nóng lạnh trong nội thể mỗi ngày mỗi lớn để phăng lần từng mối, gỡ rối từng khúc, Thái Tử quán nghiệm lại bốn thể lớn của vũ trụ. 1. Thể Lực 2. Thể Hơi 3. Thể Lỏng 4. Thể Đặc
Rồi đưa ra luận chứng phân tích. Thái Tử nghĩ Thể Lực vô cực Chân nguyên là Thể Lực chưa phân định Âm Dương. Thể Lực vũ trụ này, xuyên qua sắc, thép, kim cương, vàng, đá, sành, kiến kính, không để lại dấu vết, chỗ nào cũng có khắp cùng vũ trụ, lực này bị khuấy Động liền tạo ra hai dòng từ trường Âm và Dương nóng - lạnh Động tịnh, khi nào từ trường Âm Dương va chạm vào nhau thời phát ra tiếng sấm và những tia lửa bắn ra gọi là sét. Thể Lực là Thể Chủ của ba thể kia, thể chưa phân định Âm Dương, thời làm gì tìm ẩn nóng lạnh dẫn đến sự xung đột nóng lạnh trong nội thể không phải do Thần lực tạo ra.
Dưới Vô Cực Chân nguyên, là Thái Cực Chân nguyên, tức là Thái Thanh Chân Khí, khí vừa mới tượng hình, do Lực già chuyển hoá sanh ra Thái Thanh Chân Khí là giai đoạn đầu phân định lưỡng nghi, Âm chưa thành Âm, Dương chưa thành Dương, cũng như một mầm cây bắt đầu nảy mầm hai nhánh, sự nẩy mầm này chỉ là giai đoạn đầu khởi điểm Âm Dương, thời làm sao xung khắc nhau được, nếu xung khắc đó mới chỉ là hiện tượng mà thôi.
Còn sự xung khắc trong nội thể thì quá rõ ràng, có thể xảy ra xung đột đến mất mạng. Thái Tử nghĩ hiện tượng này là do Âm Dương chân khí, cùng thái Âm thái Dương chân khí xung đột tạo ra mà thôi. Thái âm Thái Dương Chân Khí là do Thái Thanh Chân Khí đã già chuyển hoá sanh ra. Sự chuyển hoá này đã trờ thành quy luật, không những ở trong Chân Khí mà ngay cả xã hội cũng vậy, thời kỳ quá độ của chế độ sẽ tự nó đổi mới chuyển sang chế độ khác.
Trong vũ trụ tuổi thọ của Thể Lực, gấp 20 lần của thể khí, tuổi thọ của thể khí gấp 20 lần của thể lỏng, tuổi thọ của thể lỏng gấp 20 lần của thể đặc, tuổi thọ của thể đặc gấp 20 lần tăng giảm sẽ bị huỷ hoại, cứ một lần tăng giảm trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Đạo pháp cũng thế đều có tuổi thọ an trụ của nó, chẳng hạn như Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, an trụ tuổi thọ là năm tiểu kiếp, 84 triệu năm, thời chuyển đến Liên Hoa Hải Tạng.
Giải quyết sự nóng lạnh xung đột trong nội thể, Thái Tử tiến đến giải pháp, dùng ý tưởng lưu dẫn chúng làm cho chúng chuyển động theo luật tuần hoàn lưu chuyền khắp kinh mạch, dung hoàn Âm Dương tiến lên một tầm cao mới. Sự lưu dẫn chân khí theo luật tuần hoàn dung hoà Âm Dương khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch là một phương pháp vô cùng hửu hiệu. Sự xung đột nóng lạnh trong cơ thể biến mất, thay vào đó Thần Lực, Công Lực, Nội Lực tăng lên gấp 3 gấp 4 lần.
Thái Tử nghĩ dung hoà hàng trăm Bộ Lạc theo đường lối Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Mà nền tản của sự dung hoà nầy là tôn trọng Quyền con người Nhân Quyền, phải lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đi vào Công Bằng Bình Đẳng. Tuy thiên hạ có muôn ý khác nhau. Nhưng chung cùng lương tâm đồng nhất quyền con người, dân là gốc, công bằng bình đẳng tinh hoa sự sống con người. Và cũng chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng mới dung hoà hết thảy các tần lớp xã hội đi vào thống nhất. Tạo lên sức mạnh nội lực dân tộc.
Thái Tử dẫn khí từ Đan Điền xuống Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Hội Âm chót xương cụt, hết phần bụng dưới. Rồi từ chót xương cụt, phần lưng chạy lên đỉnh đầu, yêu Di Xương cùng Dương Quan, thắt lưng, rồi tới mệnh môn, Thần Đạo, Chí Dương, Chân Trụ, Đào Đạo, Đại Thuỳ, Á Môn, Phong Phủ, Hậu Đình, Bách Hội. Bách Hội là Hội đỉnh đầu.
Thái Tử tiếp tục dẫn chân khí chạy về phía trước đỉnh đầu xuống mặt, xuống ngực, xuống bụng trên, bụng dưới trở về Đan Điền. Bách Hội. Tiền Đình. Tinh Hội. Thần Đình. Ấn Đường. Tinh Minh. Hoà Liêu. Nhân Trung. Thừa Tương. Thái Tử vận chân khí tới đây hết phần mặt rồi tiếp tục xuống cổ xuống ngực. Thừa Tương, Liêm Tuyền, Trung Quản, Thuỷ Phân rồi hội tụ tại Đan Điền.
Cứ thế Thái Tử vận hành càng lúc càng trôi chảy, thể xác con người là thể xác tiểu Thiên vũ trụ, nay Thái Tử vận hành Chân Khí chuyển vận chạy từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, tuần hoàn không dứt, làm cho các huyệt Đạo thông suốt, làm cho kinh mạch thông theo, một bí pháp vô cùng quan trọng đối với cơ thể con người tiểu Thiên vũ trụ. Thái Tử khai thông cơ thể, làm cơ thể bừng lên sức sống mãnh liệt. Thái Tử dần dần chinh phục tiểu Thiên vũ trụ, làm chủ tiểu Thiên vũ trụ, tiến lần đến làm chủ Đại Thiên vũ trụ.
Nhờ chăm chú vận hành chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, sự vận hành ấy dần dần lưu chảy thông suốt. Từ Đan Điền xuống xương cụt, theo đường xương sống chạy lên đỉnh đầu, rồi xuống tráng, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền, sự tuần hoàn ấy Thái Tử vận chuyển chân khí lặp đi lặp lại.
Mới vận chuyển chân khí, Thái Tử cảm nhận như dòng khe nước nhỏ. Nhưng giờ đây khác hẳn, Thái Tử cảm nhận như một con sông lớn lưu chuyển chảy cuồn cuồn từ ÂM sang DƯƠNG từ DƯƠNG sang ÂM. Từ Hạ Thiên đến Thiên Tiên. Từ Bách Hội xuống Hội Âm, Chân khí tràng chảy đến dâu, không những khai thông huyệt Đạo kinh mạch mà còn rộng mở huyệt Đạo kinh mạch.Sự xung đột Âm Dương không còn nữa. Thay vào đó một thân thể nhẹ bổng, trào dân sức sống Thể Lực thượng thừa.
Thái Tử từ khi tu Thiền luyện khí, tích tụ nơi Đan Điền. Huyệt ÂM GIAO. Chân khí tích tụ mỗi ngày mỗi lớn mạnh, lan toả rộng lớn khai thông các huyệt Đạo xung quanh, các kinh mạch theo đó cũng rộng mở cả bụng dưới lẫn bụng trên gần mấy chục huyệt Đạo nhưng ở đây chỉ kể một số huyệt Đạo chủ yếu mà thôi. Xung quanh xa gần huyệt Đan Điền như huyệt Khí Hải, Thuỷ Phân, Quan Nguyên, Trung Quản lên tận Cự Khuyết xuống Khúc Cốt rồi lan toả rộng ra hai bên khai thông một số các huyệt Đạo khác Phúc Kết, Thuỷ Đạo, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự, Đại Hách, Kỳ Môn, Cự Huyết, Lương Môn, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Đới Mạch, Cự Liêu, Ngủ Khu, Xung Môn v.v..
Sự khai thông này cũng giống như các Biển Hồ Bể Khí tràng đầy Khí Lực thống suốt cùng nhau tạo lên sức lực khôn lường. Huyệt Đạo khai mở, kinh mạch thông suốt, sức lực sinh khí tràn đầy. Thái Tử mỗi lần tu Thiền luyện khí thời thấy có một luồn khí nóng từ Đan Điền toả ra xung quanh vùng bụng dưới rồi toả lên khắp châu thân và gần đây Thái Tử thấy hai luồn nóng lạnh chống chỏi nhau. Và Thái Tử đã nghỉ ra phương pháp vận hành lưu dẩn Chân khí khai thông toàn bộ các huyệt Đạo - Kinh mạch châu thân.
Thái Tử dẩn chân khí bắt đầu từ ĐAN ĐIỀN xuống KHÍ HẢI xuống QUAN NGUYÊN rồi đến TRUNG CỰC. KHÚC CỐT, HỘI ÂM. Thông qua xương cụt ra sau lưng, khai thống TRƯỜNG CƯỜNG chạy lên theo đường xương sống khai thông YÊU DI. Thuộc phạm vi vùng mông, xương cùng. Chân Khí lan toả ra hai bên vùng mông khai thông các huyệt Đạo như Hội Dương, ở xương cụt, Hạ Liêu, Trung Liêu, Thứ Liêu, Bàng Quang Du, Tiểu Tràng Du, Bàn Hoang, Quan Nguyên Du.
Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân Khí chạy lên vùng eo lưng, khai thông huyệt DƯƠNG QUAN của eo lưng, thông lên MỆNH MÔN xuống sống bụng, Chân Khí lan toả ra hai bên khai thông các huyệt chạy dọc theo hai bên xương sống như huyệt Thận Du, Tam Tiêu Du, Đại Tràng Du, Thương Liêu, Chí Thất, Vị Du. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí khai thông lên huyệt CHÍ DƯƠNG. Đốt xương sống ngực thứ 7. Dưới đốt xương sống ngực thứ 7 thuộc Âm. Huyệt Chí Dương nằm ngay tại vùng giáp ranh đó.
Chân Khí chạy lên huyệt CHÍ DƯƠNG lan toả ra hai bên khai thông các huyệt Đạo như huyệt Đởm Du, Tỳ Du, Can Du, Cách Du, Cách Quan. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy lên vùng lưng khai thông huyệt THÂN TRỤ cùng các huyệt Đạo dọc theo hai bên vùng lưng xương sống ngực như các huyệt Đạo Phế Du, Quyết Âm Du, Tâm Du, Thần Đường, Cao Hoang, Phách Hộ, Phụ Phân.
Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí thông lên ĐÀO ĐẠO, ĐẠI CHUỲ. Chân Khí lan toả hai bên xương sống khai thông các huyệt Đạo vùng lưng cũng như vùng lưng bả vai như huyệt Đại Chữ, Kiên Trung Du, Đại Trứ, Khúc Viên, rồi thông qua các huyệt Đạo lưng hai bên xương vai như huyệt, Phụ Phân, Thiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Kiên Tỉnh, Bình Phong, Kiên Liêu, Kiên Ngưng, Thiên Tông, Phong Môn. Tức thì khai thông ra toàn bộ vùng lưng, vùng eo, vùng mông. Đại Chuỳ, Đào Đạo, Thân Trụ, Thần Đao, Chí Dương, Trung Khu, Tích Trung, Đại Chữ, Kiên Tỉnh, Kiên Ngưng, Phong Môn, Bình Phong, Thiên Tông, Kiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Phong Môn, Thiên Liêu. Phụ Phân. Quyết âm Du. Tâm Du. Đốc Du. Thiên Tông, Kiên Trinh, Đại Trứ, Phế Du, Cách Du, Cam Du, Đảm Du, Tỳ Du, Tam Tiêu Du, Vị Du, Chí Thất, Mệnh Môn, Thận Du, Đại Tràng Du, Quan Nguyên Du, Tiểu trường Du, Thượng Liêu, Thứ Liêu, Dương Quan, Trung Liêu, Hạ Liêu, Bàng Quang Du, Trung Lữ Du, Bạch Hoàng Du, Thừ Phù, Yêu Di, Trường Cường.
Chú ý ở đây chỉ nói đại khái những huyệt Đạo chủ yếu mà Thái Tử đã khai thông toàn bộ lưng, eo, mông. Huyệt Đạo khai mở kinh mạch theo đó cũng thông suốt. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân Khí thông lên 7 đốt xương sống cổ, khai thông huyệt Đạo Á môn. PHONG PHỦ. Chân khí lan toả ra hai bên sống cổ khai thông các huyệt như Thiên Dũ, Phong Trì, Thiên Trụ, An Miên, Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí thông lên đầu, khai thông HẬU ĐÌNH rồi thông lên BÁCH HỘI đỉnh đầu, Thái Tử dừng nghỉ để cho Chân Khí hội tụ Đỉnh Đầu càng lúc càng mạnh, làm cho Huyệt BÁCH HỘI khai thông rộng mở. Bách Hội khai thông rộng mở, thời các kinh mạch chủ lực liền thông suốt, nhiệm mầu thay. Đầu óc Thái Tử trở nên minh mẩn lạ thường. Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân khí từ Bách Hội chạy về phía trước Đầu, khai thông TIỀN ĐÌNH, TINH HỘI rồi đến THẦN ĐÌNH. Chân khí lan toả rộng ra khai thông một số huyệt Đạo như Thông Thiên, Khúc Sai. Chân khí tuông xuống trán khai thông Tinh Minh, Dương Bạch xuống ẤN ĐƯỜNG. Chân khí lan toả khai thông Toản Túc, Ty Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương. Thái Tử lại dẫn Chân khí xuống mắt xuống mũi. Khai thông huyệt Nhân Trung, chân khí lan toả rộng ra khai thông huyệt Thừa Khớp, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hoà Liêu, Tứ Bạch, Khách Chủ Nhân, Hạ Quang. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy xuống miệng xuống càm khai thông huyệt Thừa Tương. Chân khí lan toả rộng ra khai thông huyệt Địa Thương, Quyền Liêu, Đại Nghinh. Thái Tử dẫn chân khí tới đây hầu hết khai thông các huyệt Đạo chủ yếu ở phần mặt Bách Hội, Tiền Đình, Tinh Hội, Thần Đình, Thông Thiên, Khúc Sai, Tinh Minh, Dương Bạch, Ấn Đường, Toản Trúc, Ti Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương, Nhân Trung, Đồng Tử Liêu, Tứ Bạch, Địa Thương, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hoà Liêu, Quyền Liêu, Thừa Tương. Thái Tử lại dẩn chân khí xuống cổ khai thông huyệt Liêm Truyền. Chân khí lan toả khai thông huyệt Nhân Nghinh, Thiên Đỉnh, Thuỷ Đột, Khuyết Bồn.
Thái Tử lại dẫn khí xuống khai thông THIÊN ĐỘT thông xuống phần ngực chân khí toả ra một vùng rộng lớn. Khai thông Khí Xá, Du Phủ, Trung Phủ v.v… Khuyết Bồn, Kiên Tỉnh, Vực Trung. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân khí chạy xuống khai thông huyệt ĐẢN TRUNG rồi thông xuống khai thông Cưu Vĩ. Chân khí liền toả ra một vùng rộng lớn khắp vùng ngực, làm thông suốt một số huyệt Đạo như huyệt Thần Phong, Nhũ Trung, Nhũ Căn, Ưng Song, Thiên Khê v.v…
Khai thông xong các huyệt Đạo ở phần ngực, Thái Tử lại dẫn chân khí khai thông các huyệt Đạo ở phần bụng trên, từ huyệt Đạo Cưu Vĩ thông xuống CỰ KHUYẾT, TRUNG QUẢN, THUỶ PHÂN. Chân khí liền lan toả khắp vùng bụng trên, khai thông một số huyệt Đạo như huyệt Bất Dung, Kỳ Môn, Nhật Nguyệt, Lương Môn, Đới Bạch. Rồi thông xuống ÂM GIAO tức là huyệt ĐAN ĐIỀN, trở về bể nguồn nơi xuất phát. Chân khí cuồn cuộn lan toả xuống Khí Hải, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự Y, Quan Nguyên, Trung Cực thông xuống Khúc Cốt lan toả khai thống hết thảy các huyệt Đạo ở bụng dưới như huyệt Đại Hách, Duy Đạo, Ngũ Xu, Xung Môn, Cự Liêu, Đại Cự, Khí Xung, Thuỷ Đao, Ngủ Khu v.v…
Thái Tử vận hành Chân khí tuần hoàn cứ thế mà vận chuyển khai thông huyệt Đạo kinh mạch càng lúc càng thông suốt, càng lúc nhuần nhuyễn dễ dàng. Vận hành Chân khí, khí thông huyệt Đạo, kinh mạch là một bí pháp, ẩn tàng huyền vi khó mà nói cho hết. Tuy Thái Tử đã đi hơn nữa đoạn đường tu Thiền luyện khí, vận hành khai thông huyệt Đạo, kinh mạch. Nhưng đã đưa Thái Tử đến đỉnh cao, khó có người theo kịp.
Để bước sang giai đoạn khó hơn, đòi hỏi người tu Thiền vận hành Chân khí phải tập trung ý chí tinh thần cao độ, tập trung, thấy nghe hay biết, chú tâm vào tu Thiền vận khí mà thôi.
Tổ Tiên tạo lập lên vũ trụ, thời chúng ta phải tạo lập lên sự sống con người, con cái của Tổ Tiên thay thế Tổ Tiên cai quản vũ trụ. Tổ Tiên tạo lập lên thể xác con người là thể xác hoàn hảo, anh linh tối cao, thể xác Tiểu Thiên vũ trụ, thể xác tinh hoa hơn cả tinh hoa 8 muôn 4 nghìn loài cọng lại. Cũng không hơn được thể xác Tiểu Thiên vũ trụ con người. Linh Hồn đầu thai để được làm người là điều rất khó, đầu thai được làm người thời coi như Linh Hồn đã làm chủ bộ máy thể xác huyền vi vũ trụ. Linh Hồn nhờ làm chủ bộ máy thể xác.
Tiểu Thiên vũ trụ này, tiến hoá Linh Hồn phát Huệ mau chóng, đạt đến đỉnh của sự giác ngộ, làm chủ vũ trụ, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Bộ máy thể xác con người, bộ máy Tâm Linh con người là cả kho tàng bí mật vũ trụ. Không có bộ máy nào huyền diệu hơn bộ máy Tâm Linh, bộ máy thể xác con người. Không có con thuyền nào bay vào vũ trụ, hơn được con thuyền Tâm Linh. Con thuyền tiểu Thiên Vũ Trụ, thể xác con người. Thái Tử phát huy vận dụng lều lái con thuyền Tâm Linh, con thuyền tiểu Thiên vũ trụ bay đến tận Cội Nguồn vũ trụ, gặt hái những thành quả mà không thể ai cũng gặt hái được. Không có sức mạnh nao hơn được sức mạnh con người, dù cho đó là sức mạnh của Rồng, Voi, Sư Tử, Cọp, Báo v.v… Nhưng ít ai hiểu được điều này, nếu ai hiểu được bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ, điều khiển và phát huy sức mạnh của nó, thời Di sơn đảo hải chỉ là việc nhỏ mà thôi. Chúng ta sẽ lần lượt thấy rõ Thái Tử phát huy sức mạnh tìm ẩn mật tạng bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người ở những đoạn kinh sau.
Có thể nói Thái Tử đang phát huy tìm năng sức mạnh con người, sức mạnh tâm Linh con người, tiến sâu về bí mật vũ trụ, mở đường cứu thế, làm khiếp đảm loài Ma - Quỉ - Yêu - Tinh, đem lại hạnh phúc cho nhân loại con người, nhân loại anh em.
Sở dĩ con người yếu hơn loài Rồng, Voi Sư Tử, Hổ, Báo là vì con người không hiểu tiềm ẩn sức mạnh con người, cũng như sức mạnh tâm Linh, nên không tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ. Vận hành năng lượng Vũ Trụ. Khai thông huyệt đạo kinh mạch. Vì thế bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người trở nên yếu ớt, bệnh tật hoành hành thời tiết xâm hại. Cũng như một xã hội mà thiếu đi văn hoá Cội Nguồn lại thêm các huyết mạch giao thương, trục lộ chủ chốt chật hẹp tắc nghẽn, thời xã hội đó không nói chúng ta cũng hiểu, không những lạc hậu đói nghèo lắm điều khốn khổ. Văn Hoá Cội Nguồn lưu chảy trong tâm linh chính là Nguồn sinh khí nuôi dưỡng Tinh Thần, phát huy nội lực tiềm ẩn Tâm Linh, làm tinh thần Dân Tộc lớn mạnh, không có sức mạnh nào hơn được. Thái Tử đang nổ lực tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ, Chủ Nghĩa Đại Đồng nuôi dưỡng tinh Thần phát huy đến chỗ chí linh, chí Thánh.
Nói đến con người thời ai ai cũng biết có cả phần Hồn, lẫn phần Xác. Thái Tử là nhà khoa học vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, kinh mạch là ba phương án tối cao, đưa sức mạnh con người lên ngan tầm sức mạnh vũ trụ. Tiểu Thiên vũ trụ hoà nhập vào Đại Thiên vũ trụ. Thái Tử là nhà khoa học Đa năng xã hội, nhà lãnh tụ Tinh Thần vĩ đại dân tộc, không những tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, vận hành Văn Hoá Cội Nguồn khai thông tinh thần làm cho các Bộ Tộc, Bộ Lạc, các tần lớp xã hội, các giáo phái, các màu da. Chủng Tộc hội nhập vào Cội Nguồn, triệu người như một, tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, kéo dài Độc Lập, minh chứng lịch sử thời Đại Vua Hùng kéo dài hơn hai nghìn bảy trăm lẽ một năm.
Sự phát triển văn minh xã hội không chỉ là sự văn minh, máy móc, vật chất mà còn phải văn minh về thể lực đi đôi với văn minh Tinh Thần, làm chủ xã hội đi đôi với làm chủ bản thân, làm chủ ý thức, làm chủ Tâm Linh của mình. Hướng về tương lai tươi sáng, sống trong bầu không khí trong lành Đại Đồng, Bình Đẳng, Công Bằng văn minh.
Nếu chúng ta không biết khai thông nhân loại, khai thông mọi tổ chức chính trị, mọi thành phần giai cấp xã hội, mọi tôn giáo, Đảng phái. Bằng con đường Chính Nghĩa Văn Hoá Cội Nguồn Đại Đồng Bình Đẳng, thời phải nói chúng ta đang sống trong thế giới đầy bệnh hoạn với bao nhiêu là sự bế tắc, dẫn đến bao nhiêu là xung đột, dẫn đến xã hội Địa Ngục, thế giới Địa Ngục, con người làm hại con người, đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời, thời hậu quả không biết đâu mà lường. Thái Tử là nhà Đại khoa học vũ trụ, Đại khoa học xã hội Tinh Thần lẫn vật chất. Nói đến tu Thiền luyện khí là nói đến chúng ta tiến tới làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh xã hội. Hàng phục thói hư tật xấu, trở thành một chân Tâm trong sáng. Đại Đồng chủng tánh đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Làm chủ vận mệnh làm chủ vũ trụ. Vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, làm cho cơ thể tràng đầy sinh lực. Đẩy lùi mọi bệnh tật.
Vận hành Văn Hoá Cội Nguồn, khai thống trí huệ con người, thấy rõ tương lai tốt đẹp, không còn lẩn quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp, giống như con Ếch ra khỏi đáy giếng, gà con ra khỏi lớp vỏ trứng, với cái nhìn khác xưa cái nhìn hiểu thế nào là về sự ngu dốt của mình. Người vận hành Chân khí, cũng giống như ao hồ sông rạch xưa nay bị lu lấp, tắc nghẽn, nay bổng cơn mưa kéo đến làm cho ao, hồ, sông, rạch không những đầy nước, lại khai thông dòng chảy, khai thông sức mạnh liên kết cùng nhau dẫn đến bất tận. Nói về con người đã được khai thông huyệt Đạo kinh mạch, thời sức mạnh toàn thân bất tận. Thái Tử thấy rõ điều đó.
Để tiến đến giai đoạn khó khăn hơn, đòi hỏi người tu Thiền luyện khí phải tập trung cao độ, cùng một lúc vận hành khai thông nhiều huyệt Đạo. Đây là một việc làm khó, đối với người căn cơ kém, còn đối với Thái Tử dẫn Chân khí từ Đan Điền xuống Khúc Cốt, Hội Âm, Trường Cường, rồi lan toả rộng ra Bế Quan, Xung Môn, Âm Liêm, Thừa Phụ xuống hai chân khai các huyệt Đạo bốn mặt, mặt sau, mặt trước, mé ngoài, mé trong. Từ Háng - Mông xuống các đầu ngón chân rồi vận khí chạy trở lên Xung Môn, Bế Quan.
Để vận hành Chân khí khai thông các huyệt Đạo có hiệu quả, Thái Tử nhớ rõ các huyệt Đạo vị trí huyệt Đạo nằm trên cơ thể một cách rõ ràng. Thái Tử vận hành Chân khí thông lên hai bên hông khai thông huyệt Cư Liêu rồi đến Ngủ Khu, Đới Mạch, Chương Môn.
Thái Tử vận hành Chân khí thông lên nách, khai thông huyệt cực tuyền, rồi thông lên bả vai khai thông huyệt Kiên Ngung, Kiên Tỉnh hai bên trên bả vai, để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo kinh mạch Thái Tử tiếp tục dẩn Chân khí chạy xuống hai cánh tay khai thông các huyệt Đạo ở hai mặt cánh tay mé ngoài, mé trong của hai cánh tay xuống tận các đầu ngón tay rồi dẩn Chân khí trở lại, chạy lên vai khai thông hai huyệt Thiên Đỉnh ở bả vai gần giáp cổ. Để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí, Thái Tử dẩn Chân khí thông lên cổ khai thông hai huyệt Thiên Song. Chân khí cuồn cuộn thông lên đầu, khai thông các huyệt Đạo dọc theo hai bên tai lên Bách Hội.
Chân khí từ hai huyệt Thiên Song ở cổ cuồn cuộn thông lên huyệt Thiên Dung, thông lên Ế Phong, Hoàn Cốt giáp tai, rồi thông lên Chính Cung, Nhĩ Môn, Khiếu Âm, Khúc Tấn, Giác Tôn, Thừa Linh rồi thông lên Bách Hội. Hai dòng sông Chân khí hiệp lại nhau làm cho Bách Hội khai mở một cách kỳ lạ làm thông suốt các kinh mạch nhỏ lớn khắp toàn châu thân. Thái Tử thấy cơ thể nhẹ như bong bóng Thần Lực bất tận, khí lực như Đại Dương. Lúc này Thái Tử không cần tập trung ý tưởng dẩn Chân khí nữa mà ý để đâu thời Chân khí chạy tới đó.
Chân khí theo ý Thái Tử chạy xuống trán, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền và cứ thế theo luật tuần hoàn vận hành Chân khí lưu chuyển thuần thục. Ba con sông lớn thi nhau mà chảy đem Nguồn Chân khí vũ trụ bồi đắp kinh mạch, huyệt Đạo, Tế Bào nguồn Chân khí năng lượng sống vũ trụ, từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, sự tuần hoàn này Chân khí tuôn chảy đến đâu, thời các lỗ chân lông đều khai mở đến đó. Có thể nói chẳng khác gì bốn biển, năm châu, giờ đây đã được Dung Hoà, Đông Tây Nam Bắc, Trung Ương, Thượng, Hạ thành một mối, Thái Bình An Lạc Đại Đồng Bình Đẳng. Phàm, Thánh hợp nhất các thứ tệ nạn xã hội liền bị đẩy lùi hết chỗ dung thân, cũng như khai thông huyệt Đạo kinh mạch bệnh tật liền bị tiêu trừ.
Sức mạnh của một Quốc gia không phải chỉ ở một người hay một tổ chức chính trị, Đảng phái tôn giáo, không có dân thời lấy đâu có Chính Quyền, lấy dân làm gốc là đều tất yếu. Nhưng phát huy được cái gốc của dân, đó mới là điều thăng chốt, tiến tới xã hội văn minh, xã hội Đại Đồng Bình Đẳng mà chỉ có Văn Hoá Cội Nguồn mới là chỗ tựa vững chắc của toàn dân. Có thể nói mỗi việc làm mỗi suy nghĩ của Thái Tử, để lại cho chúng ta những Di sản quí hiếm và không cho phép chúng ta đánh mất Di sản quí hiếm mà Tiền Nhân để lại cho chúng ta thứ tài sản vô giá này.
Đáp: Người hết lòng vì dân vì nước là người thương yêu Đồng Bào như thương yêu máu thịt của mình, suốt cuộc đời chỉ lo cho dân cho nước mà không đòi hỏi cầu lấy Danh, Lợi, địa vị nào cả. Không bao giờ dìu dắc Đồng Bào vào cảnh anh em tương tàn, nồi da nấu thịt. Đi đầu trong mọi lĩnh vực nhân cách Đạo Đức, Trung Hiếu mãi mãi tôn thờ truyền thống dân tộc Văn Hoá Cội Nguồn. Những kẻ giả nhân giả nghĩa, giả Đạo giả Đức làm hại dân tộc, làm hại non sông Tổ Quốc, chỉ lừa dối những kẻ thiếu hiểu biết, lừa dối Thần Thánh sao được. Và cán cân Công Lý vũ trụ sẽ chuyển xây vận mệnh kẻ ấy vào Thiên La Địa La trùng trùng tai hoạ. Danh, tánh của những kẻ ấy sẽ được công luận lên án, đời đời bị Thiên Hạ nguyền rủa.
Hỏi: Thế nào là đặc niềm tin đúng chỗ.
Đáp: Tin Văn Hoá Cội Nguồn, truyền thống anh linh dân tộc. Tinh Hoa Truyền Thống Dân Tộc là nguồn nước Thánh Quốc Bảo Chí Tôn, Chí Thánh của dân tộc mà Ông Cha ta đã dày công vun đắp, truyền lại cho chúng ta.
Hỏi: Thế nào là lợi dụng Tôn giáo Đạo giáo phục vụ cho mưu đồ xâm lược?
Đáp: Các thế lực ngoại xâm họ thường lợi dụng học thuyết chân chính, của các Tôn giáo Đạo giáo những giáo điều của Tôn giáo Đạo giáo có lợi về mặt chính trị, họ liền áp dụng đầu độc dân tộc ta, làm cho dân tộc ta quên đi Nguồn Cội, sa ngã bị mê hoặc, làm mất đi ý chí tự cường, ý chí trung Hiếu, lu mờ truyền thống Con Rồng Cháu Tiên. Cụ thể dân tộc ta vô cùng khốn khổ phải chịu cảnh nô lệ hàng nghìn năm, sống trong chảo dầu biển lửa, sống trong kiềm kẹp với hàng trăm lớp trói chính sách của quân xâm lược, dân ta phải chịu cảnh trâu cày ngựa cỡi, đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Các học thuyết Tôn giáo Đạo giáo một khi các thế lực ngoại xâm lợi dụng biến chúng thành con dao nhiều lưỡi, uy hiếp tinh thần dân tộc. Vì hiểu tính cách lợi hại con Dao nhiều lưỡi này mà quân xâm lược luôn luôn mang theo nó, để uy hiếp đè bẹp tinh thần dân tộc ta, nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Cảnh thực hư của các giáo điều mà chúng luôn luôn dùng những giáo điều ấy mở đường cho xâm lược. Một dân tộc Rồng Tiên bị chúng trói vào giáo điều và chúng cho đó là pháp luật, thời con Rồng biến thành con giun ngay. Chúng Ta hãy hội nhập Văn Hoá Cội Nguồn chính là diệu dược Linh Đơn một khi uống vào liền thấy rõ chân tướng của loài Hồ Ly, Cáo, Sói.
Đáp: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào cũng nguy hiểm nhưng giặc nội tâm càng nguy hiểm hơn, muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thời phải loại bỏ thói hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của mỗi chúng ta, giặc thói hư tật xấu là thứ giặc vô cùng nguy hiểm, đồng bọn của chúng là giặc dốt, giặc ngu si, giặc mê muội. Chúng hùa nhau tham lam, vơ vét của dân, của nhà nước, trộm cướp là thứ giặc con, đặc ra chính sách bóc lột làm cho dân khốn đốn, giặc Cha thứ giặc luôn luôn bốc mùi tàn bạo. Một xã hội ấm no Thái Bình Hạnh Phúc là một xã hội đầy lòng Chân Chính, Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa cao. Muốn hiểu rõ sự nguy hại của thói hư tật xấu giặc nội tâm, thời phải dùng đến gươm Thiên trí Huệ trong Văn Hoá Cội Nguồn, báu vật của Trời Đất, có đủ ba ánh sáng để tiêu diệt chúng. 1: Đó là ánh sáng Công Lý Chính Nghĩa Đạo Đức truyền thống dân tộc. 2: Là ánh sáng Chân Lý Đạo Pháp Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ. 3: Là ánh sáng Luật pháp, công bằng xã hội.
Ba nguồn ánh sáng này một khi đã chiếu lên, tức thời u minh non sông Tổ Quốc tan biến ngay. Trả lại cho con người Tâm Hồn trong sáng, giặc nội Tâm sẽ lùi sâu vào tâm thức dần dần bị tiêu diệt, thay vào đó là một Tâm Hồn vị tha và đầy lòng quả cảm. Đẹp như Tiên và mạnh như Rồng. *********
Hết phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 5 chương 9.
CHƯƠNG 9
PHẦN 5
GIAI ĐOẠN 3 TU THIỀN LUYỆN KHÍ
Thái Tử giờ đây, nhất cử nhất động đều phát tuôn thần lực, ai nhìn thấy cũng khiếp vía. Các lỗ chân lông đều khai mở, Chân khí thu nạp vào Đan Điền liền thông suốt đến các lỗ chân lông ngay, người tu luyện đến đây đã là kinh khiếp lắm rồi nhưng đối với Thái Tử thời chưa đạt, phải tiến lên một nất cao hơn nữa.
Thái Tử tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông, một phương pháp tối cao của người tu Thiền luyện khí. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy, tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông là để phát huy sức mạnh toàn năng cơ thể con người Tiểu Thiên vũ trụ. Đây là một phương pháp hơi khó nhưng đối với Thái Tử thời không thấy khó tí nào cả, còn đường đi Thái Tử cho ta thấy, phát huy sức mạnh toàn thân, Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải có phương pháp đối với cơ thể, binh pháp đối với xã hội. Phát huy sức mạnh toàn năng Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ, vận hành Chân khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, khai thông các lỗ chân lông, 8 muôn 4 nghìn lỗ chân lông một khi đã hít thở thu nạp năng lượng vũ trụ, thời bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ đã hội nhập vào bộ máy Đại Thiên vũ trụ, thu hút sức mạnh vũ trụ chuyển thành sức mạnh của mình.
Phát huy sức mạnh của một Quốc gia không khác gì mấy, 80 triệu dân hay 100 triệu dân, ví như mỗi người dân là mỗi đầu Lông của Tổ Quốc, các thành phần tổ chức Đảng phái, Tôn giáo, Đạo giáo các dân tộc anh em, ví như các huyệt Đạo của Tổ Quốc và sự giao thương với nhau, ví như là các kinh mạch.
Văn Hoá Cội Nguồn chính là năng lượng sống, cả ba mặt, khoa học, Tinh Thần, vật chất, vận hành Văn Hoá Cội Nguồn, lưu chuyển khai thông, thời kinh mạch giao thương liền được thông suốt mở rộng, đời sống xã hội tiến tới đỉnh cao nhanh chóng. Một đất nước như thế, không nói chúng ta cũng hiểu, đất nước ấy không những vững mạnh về vật chất mà mạnh cả Tinh Thần và cả sức mạnh toàn xã hội Tổ Quốc. Đất nước ấy dù có nhỏ, dù ít dân nhưng khó có đất nước nào đánh bại, dù cho đó là cường Quốc dân số hơn gấp mười lần. Đất nước ấy tuy dù ít dân nhưng dân tộc ấy là dân tộc Rồng Tiên thật sự.
Đức ÂU CƠ khi sinh ra nhân loại thể xác con người, thời loài Rồng huỷ bỏ thân xác loài Rồng, Linh Hồn Loài Rồng đầu thai vào con người làm chủ bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ trước nhất, còn các loài khác lần lượt đầu thai làm chủ thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ kế theo sau. Một dân tộc mà sức mạnh như Rồng, đẹp như Tiên, thử hỏi thế lực nào chống nổi.
Sức mạnh của một Quốc gia mà chỉ mạnh ở Vua Quan hay của một Đảng phái, thời sức mạnh Quốc gia ấy chỉ là sức mạnh của con người bình thường, không phải sức mạnh của con người đã khai thông huyệt Đạo kinh mạch. Vì vậy sức mạnh của một Quốc gia không chỉ ở Vua Quan hay một Đảng phái thống trị mà là sức mạnh toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị và Văn Hoá Cội Nguồn chính là rường cột tạo lên sức mạnh đó.
Sức mạnh vô tận của con người là dùng Chân khí năng lượng sống vũ trụ khai thông huyệt Đạo kinh mạch, tạo lên sức mạnh Đại Đồng Tổng Thể từ vô hình cho đến hửu hình, từ Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng cho đến Thể Đặc, sức mạnh tìm ẩn của con người đã được phát huy.
Dân giàu nước mạnh, nước mạnh thời trổ Hoa Độc Lập, Hoa Độc Lập bền vững là nhờ đã kế thừa được cái quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên, quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên là nhờ Tinh Hoa Văn Hoá Cội Nguồn làm cho nó phát triển càng lớn mạnh. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy bài học Căn Cội của sự thống nhất, bài học phát huy sức mạnh toàn dân, phát huy nội lực tìm ẩn xã hội. Bài học phát huy nội lực toàn dân, đưa con người đưa xã hội tiến đến cảnh giới tối cao, cảnh giới Cực Lạc.
Trở lại vấn đề chính. Thái Tử ngoài Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu tu Thiền luyện khí, còn các giờ khác Thái Tử tu tập hít thở theo lỗ chân lông, đầu tiên thấy hơi khó nhưng sau đó trở thành thói quen, Chân khí theo lỗ chân lông ra vào thông suốt. Thái Tử chỉ cần hít một luồng Chân khí vận dụng toàn thân, tức thời thân hình bốc cao lên khỏi mặt đất ngay. Thái Tử đã biết mình đạt đến đỉnh cao của vũ thuật, quyền pháp, chưởng pháp đỉnh cao của Thiên Tiên, Địa Tiên.
Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn rất xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới tối cao của vô minh. Đây không phải việc làm mà ai ai cũng làm nổi, phải Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, Đại trí huệ mới vượt qua nổi. Trong cảnh giới tối cao của vô minh, những cảnh giới xuất hiện càng lúc càng kỳ bí, những cảnh tượng khủng khiếp, những cảnh tượng êm đềm mãi hiện ra bất tận, nếu không làm chủ cái thấy nghe hay biết của mình, khởi tâm phân biệt chạy theo sự thấy nghe hay biết, thời tức khắc rơi vào Ma Đạo, Quỉ Đạo ngay, mắc vào bẫy lưới của Ma Vương và Đại Quỉ đã ẩn sâu tận đáy Tâm Hồn của con người, tất cả đều đã hiện ra. Cứ một đoạn đường tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ là mỗi lần Thái Tử đổi phương pháp tu luyện.
Nói về xão nữ Thị Tỳ, vừa đem đồ ăn thức uống rời khỏi cấm cung, thời nghe tiếng nói vọng đến từ rất xa: Cúc Phương cứ bảy ngày ngươi mới đem đồ ăn thức uống đến vào buổi trưa đúng Ngọ, vì ta sắp sửa nhập Thiền vào cảnh giới Đại Định, không được cho ai tới gần khu rừng cấm nhất là nơi ta đang nhập Định.
Cúc Phương khiếp vía tưởng là mình đang nằm mơ, cứ rờ tai dụi mắt chừng nhìn giõ đồ ăn cùng xe ngựa mới biết là mình không có nằm mơ. Cúc Phương nhìn quanh nhìn quất không thấy Thái Tử đâu cả, đâm ra sợ hãi, hỏi: Có phải Thái Tử dạy bảo tỳ nữ đó không?
Cúc Phương lại nghe tiếng nói của Thái Tử như con Muỗi vo ve: Ngươi không thể thấy ta được đâu vì ta đang ngồi trong thiền phòng khu rừng cấm. Thôi ngươi trở về đi, 7 ngày sau ngươi đem đồ ăn thức uống đến theo lời dặn của ta khi nảy.
Cúc Phương nghe xong càng khiếp vía, vì từ đây đến nơi Thái Tử rất xa đến mấy dặm đường, Cúc Phương bổng chuyển sợ hãi thành niềm vui, hay là Thái Tử thành Đạo rồi, có lẽ là thế.
Xão nữ Thị Tỳ Cúc Phương đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Thần Long Nữ mẹ của Thái Tử cùng Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử nghe. Nghe xong Thần Long Nữ, Kinh Dương Vương vô cùng mừng rỡ. Nghĩ con ta Đắc Đạo thật rồi ngũ thông khai mở. Kinh Dương Vương lại nghĩ Con hơn Cha là nhà có phúc, ta tu luyện đã hơn 70 năm cũng không được thế, có lẽ hơn hẳn các Đạo sĩ, tu sĩ của các giáo phái rồi. Thần Long Nữ cũng nghĩ như vậy liền nói, đã Đắc Đạo cao đến thế còn tu luyện nữa để mà làm gì? Kinh Dương Vương hồi tưởng lại lời nói của Thái Tử trước đây thở dài nói.
Hùng Lan sở dĩ dốc sức tu luyện để tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, cái gì là Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thật quá mơ hồ vời vợi, chưa bao giờ nghe nói, nói chi đến việc nhìn thấy. Thần Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế cũng thở dài theo càng lo lắng cho Thái Tử, dặn tỳ Nữ Cúc Phương rằng việc hôm nay ngươi không được nói cho ai biết. Cúc Phương vân dạ rồi lui ra. Địa Tiên lấy Chân khí làm Đạo. Thiên Tiên thời tiến xa hơn nữa, tham thiền quán tưởng hành Đạo. Nói 1 cách dễ hiểu, Địa Tiên chú trọng về Khí. Thiên Tiên chú trọng về Pháp. *********
Hết phần 5 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 1 chương 10.
Tuy Thái Tử biết mình đã đạt đến cảnh giới tối cao vượt trên cả Thiên Tiên và Địa Tiên. Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn quá xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới vô minh của vô lượng kiếp, đầy khó khăn gian truân nguy hiểm. Nếu không hội ngộ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, hàng phục tâm viên ý Mã, thời dễ mắc vào bẫy lưới của Vô Minh, Ma Vương và Đại Quỉ, rơi vào con đường tà Đạo thời nguy hiểm biết là bao. Theo sự nhận biết của Thái Tử, muốn tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ, thời phải hiểu rõ Duy Thức chủng Tánh, Cội Nguồn của muôn loại pháp thuật Thần Thông, pháp thuật Thần Thông biến hoá, theo căn nguyên của Duy Thức. Duy Thức là cái biết đã khởi tưởng phân biệt. Ý Thức là Thần Chủ của Lực. Lực là chủ của Khí. Khí là chủ của Nước mà Nước là chủ của Đất. Hay nói một cách dễ hiểu.
Duy Thức là do bản thể Linh giác Chân Tánh phân biệt khởi niệm tạo ra. Chân Tánh ví như Nước, Thức Tánh ví như bọt Nước. Duy Thức Tánh bọt Nước sanh ra liền làm chủ Thể Lực mà Thể Lực là chủ của Thể Khí mà Thể Khí là chủ của Thể Lỏng Nước, Nước lại là chủ của Thể Đặc Đất. Sự liên kết của Ngũ Thể. 1: Thể Thức 2: Thể Lực 3: Thể Khí (Hơi) 4: Thể Lỏng (Nước) 5: Thể Đặc (Đất)
Thành một chuổi nhân duyên hệ thống giây chuyền liên kết móc xích cuốn hút vào nhau.
Chỉ cần ý tưởng khởi niệm chuyển động thời Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc bị cuốn hút hoặc phản ép theo ý tưởng ấy ngay. Tất cả mọi suy nghĩ, mọi suy tưởng, mọi suy luận đều gọi là Duy Thức cả, pháp thuật Thần Thông, không ngoài nguyên tắc, Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức luân phiên biến hoá, tạo ra cảnh giới Duy Thức Thần Thông.
Duy Thức Thần Thông, Duy Thức Suy Luận, Duy Thức Suy Tưởng, Duy Thức Khoa Học, Duy Thức thuộc hệ nhận thức, Duy Thức thuộc hệ Vô Thức, Duy Thức thuộc hệ tưởng không phải là tưởng, phi phi tưởng xứ v.v… Nói chung những nhóm hệ Duy Thức này được Thái Tử phát huy khai thác tận dụng rốt ráo.
Duy Thức Thần Thông là loại Duy Thức pháp thuật Thần Thông biến hoá, có một sức mạnh tổng thể nối liền từ vô hình đến hửu hình, từ vô sắc đến hửu sắc, từ vô tướng đến hửu tướng, vô vi chuyển hoá hửu vi. Vì thế ý tưởng đã khai tưởng ra cảnh giới gì thời Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ứng dụng biến hiện ra cảnh giới ấy, thu hút cuốn hút Lực khí nước đất ứng dụng theo hiện ra cảnh giới đó, gọi là pháp thuật Thần Thông.
Duy Thức Thần Thông là hệ Duy Thức Mật Tạng đa dạng biến hoá khôn lường, không thể nào luận bàn cho hết được, nếu không phải là Phật Trí, Thánh Trí thời khó mà nhận biết được. Chỉ một việc Thái Tử mới khởi tưởng về Thần Thông, thời các hệ Duy Thức khác liền hội nhập vào ý tưởng đó ngay. Giống như ánh sáng nhập vào ánh sáng, không có sự chướng ngại nào cả, hàng vạn hệ Duy Thức hội nhập vào một hệ Duy Thức không chướng ngại gì cả mà chỉ làm tăng thêm uy lực mầu nhiệm biến hoá cho pháp thuật Thần Thông mà thôi. Để hiểu thêm pháp thuật Thần Thông, vô vi chuyển hửu vi, vô hình chuyển hửu hình, sự chuyển vận đó phải qua trung gian, Thể Lực và Chân khí.
Ý Thức khởi tưởng, Duy Thức vô vi, Lực - Khí là Thể Lực vừa vô vi vừa hửu vi, Thể Lỏng, Thể Đặc thuộc hửu vi. Một khi ý Thức khởi tưởng chuyển biến thời Thần Lực Chân Khí cuốn hút chuyển biến theo, thu hút Thể Lỏng, Thể Đặc Nước Đất hiện ra cảnh giới ý tưởng của Duy Thức. Có thể nói cảnh giới ý tưởng vô vi thuộc hình, cảnh giới hửu vi chỉ là cái bóng của ý tưởng Duy Thức mà thôi. Hay nói một cách khác, cảnh giới tâm thức luôn luôn tồn tại trong tâm thức (Hình). Cảnh giới hửu vi chỉ là cái bóng của Hình, đã là cái bóng của Hình, đủ nhân duyên thời nhốm hợp theo nghiệp lực của Hình, hết nhân duyên nghiệp lực thì tan rã, từ Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc trở xuống, còn Duy Thức cảnh Hình không tan hoại nhập vào pháp Tạng Duy Thức, lưu trử tại đây. Nói tốm lại, Linh Hồn cùng thể xác chung một nhịp sống, như bóng với hình, như hình với bóng, nối liền với nhau qua nhịp cầu trung gian Thể Lực và Thể Khí. Một khi Chân Khí Thể Lực cạn kiệt thời Linh Hồn thể xác tách đôi, Hình còn Bóng mất.
Vì vậy Linh Hồn muốn bảo tồn sự trường thọ của thể xác, thời phải tu Thiền luyện khí, người thường Tục không hiểu được điều này nên không chú trọng đến tu Thiền luyện khí, để kéo dài tuổi thọ, người thường Tục Chân Khí và Thần Lực chỉ đủ duy trì sự sống, thông qua lối hít thở theo quán tính tự nhiên bình thường. Nên đối với việc pháp thuật Thần Thông thời rất xa lạ, thật ra pháp thuật Thần Thông luôn luôn tồn tại bên họ, cũng giống như mù không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng thật ra ánh sáng mặt trời ở ngay trên đầu họ, chẳng ảo tưởng xa xôi chút nào.
Thần Lực vũ trụ, Chân Khí vũ trụ không ở đâu xa luôn luôn tồn tại ở sát bên người nhưng ít ai nhận ra giá trị Chân Khí, Thần Lực năng lượng sống vũ trụ, sức mạnh vũ trụ, để rồi thu nạp Chân Khí, Thần Lực vũ trụ làm tăng sức mạnh con người, con người phàm tục vì không nắm bắt được năng lượng sống vô giá ấy, nên phải làm con người thường tục, thân xác nặng nề đầy dẫy bệnh tật, tiếc thay.
Thái Tử là nhà Khoa Học vũ trụ quá hiểu rõ điều này, nên việc tu Thiền luyện khí mau đạt kết quả, kết tụ nhị xác thân nhanh chóng Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ Đỉnh, Ngũ khí triều dâng, nên việc tu luyện thuật xuất Hồn ra khỏi thể xác phàm tục, Linh Hồn Thái Tử giờ đây đã có nhị xác thân, tức là cái Thân Tinh, Khí, Thần, đã kết tụ do tu Thiền luyện khí kết hợp với Tinh Thể của Thái Tử tạo ra.
Trước khi luyện tập pháp thuật xuất hồn Thái Tử ngồi xếp bằng điều hoà Chân Khí. Sau đó thời yên lặng trong cảnh giới Đại Định, rồi khởi tưởng Linh Hồn bay lên ra khỏi xác thân, rồi hạ xuống nhập vào thi thể, cứ thế Thái Tử tập đi tập lại nhiều lần, càng lúc càng thuần thục hơn cho đến khi xuất hồn nhập hồn như ý.
Để mở rộng thêm phạm vi hiểu biết về Thuật xuất hồn, đối với việc xuất hồn rất dễ đối với người tu Thiền luyện khí, nhất là những người tu Thiền luyện khí đã kết tụ nhị xác thân. Còn rất khó khăn đối với người thường tục, vì Linh Hồn người thường tục phần lớn Linh Hồn hoạt động đều nương theo thể lực, con người nương khí hít thở theo tự nhiên quán tính của con người nên khó mà xuất hồn ra khỏi thể xác phàm tục vì bị lệ thuộc vào Thần Lực, Chân Khí của thể xác, bộ máy sống tiểu Thiên vũ trụ. Vì tu Thiền luyện khí nên Linh Hồn Thái Tử không còn phụ thuộc vào Thần Lực Chân Khí sẵn có của thể xác mà còn làm cho thể xác Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Lúc này Thái Tử chỉ cần một ý niệm khởi tưởng, tức thời Thần Hồn Thái Tử nhị xác thân ra khỏi thể xác phàm tục ngay. Lúc này nếu có người để ý thời không khỏi kinh ngạc, vì nơi Thiền phòng luôn có mặt hai Thái Tử, một Thái Tử ngồi Thiền, một Thái Tử đang hoạt động như bóng Ma. Thể xác phàm tục từ đây đối với Thái Tử chỉ là một lớp áo da Thái Tử thường mặt mà thôi.
Và cho đến một hôm, Thái Tử liền xuất hồn ra khỏi lớp áo da thể xác phàm tục tưởng mình bay lên không trung nhắm hướng trung Đông, Tây Tây Bắc bay đến dãy núi cao nhất vùng Tây Tạng. Nhị xác thân là thân xác Tinh Khí Thần. (Thần Lực, Chân Khí và Tinh Khí). Thể xác nầy nhẹ, không những giảm đi lực ép của vũ trụ mà còn giảm luôn lực hút của trái Đất, thân thể luôn theo ý Linh Hồn muốn nặng thời nặng muốn bay thời bay. Đứng trên đỉnh núi của dãy núi cao nhất, có lẽ nghìn năm không có dấu chân người, có lẽ đây chính là nơi lý tưởng để cho Thái Tử tu luyện pháp thuật Thần Thông.
Thái Tử đứng trên đỉnh núi cao hớp một luồn Chân Khí, tức thời Thái Tử bổng to như người khổng lồ, nếu lúc này có người nhìn thấy họ sẽ khiếp hoảng sợ hãi ngất đi.
Đây nói về thể xác phàm tục Thái Tử vẩn luôn trong tư thế ngồi Thiền, tim vẩn đập máu vẩn lưu thông, vì sao lại có chuyện lạ như thế. Không có gì là chuyện lạ cả, thể xác con người là bộ máy sống, chỉ cần có Chân Khí là nó vẩn sống động bình thường. Thái Tử đã khai thông kinh mạch huyệt Đạo, lại khai thông các lỗ chân lông, lại tập cho bộ máy sống thể xác thu nạp Chân Khí theo lỗ chân lông, bộ máy sống thể xác tự nó hấp thu Chân Khí nên lục phũ ngũ tạng hoạt động bình thường, máu huyết lưu thông nhờ huyệt Đạo kinh mạch thông suốt. Thể xác thường không được thế, khi Linh Hồn rời khỏi thể xác, thời phổi ngừng thở không thu nạp được năng lượng sống Chân Khí vũ trụ, nên lục phũ ngũ tạng ngưng hoạt động theo, thể xác dần dần tan rã. Thể xác Thái Tử như cổ máy thu hút năng lượng sống Chân Khí vô tận, cũng giống như người tài xế đã rời khỏi xe nhưng xe vẩn còn nổ không tắc vì còn đầy đủ nhiên liệu đủ yếu tố để hoạt động.
Nói về Thái Tử ở trên đỉnh núi cao hớp một luồn Chân Khí làm cho Chân tướng trở nên to lớn dị thường. Pháp thuật Thần Thông là pháp thuật do Duy Thức ứng dụng năm nguyên tắc để biến hoá là Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức để biến hoá. Thức sắc, thức thọ, thức hành, thức biến hay nói một cách dễ hiểu, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và ý thức. Khởi dụng Thần Thông biến hoá, nếu không phải mắt Phật mắt Thánh thì không thấy nổi. Muốn biến thành cọp hay biến mình thành cọp trước tiên Thái Tử hình dung con cọp (Thọ) rồi khởi tưởng ra con cọp (Tưởng) hiện rõ màu sắc móng vuốt mắt mũi (Sắc) con cọp đang sống động (Hành) sau cùng là ý thức khởi động con cọp tự nhận thức ra mình là cọp (Thức biến). Cuộc hành trình pháp thuật Thần Thông như sau. Trước tiên Thái Tử hình dung con cọp, đó là sự hình dung tổng quát chưa rõ nét (Thọ Thức) thức thứ 2 liền xuất hiện. Khởi tưởng hình con cọp rõ nét hơn (Tưởng Thức) thức thứ 3 liền xuất hiện làm cho con cọp lộ rõ màu sắc đến rõ nét hoàn hảo (Sắc Thức) thức thứ 4 xuất hiện làm cho con cọp sống động (Thức Hành). Sau cùng là thức, thức thứ 5 ý thức tự nhận thức ra mình và chuyển động toàn thân theo ý muốn, tức thời thân hình Thái Tử biến mất thay vào đó là một hình thể con cọp. Để hiểu thêm về pháp thuật Thần Thông, ví như người làm bánh, có bột mới làm bánh, không có bột muốn làm bánh cũng không làm đươc, bột làm bánh ở đây là nói đến Tinh Khí Thần, người thường cũng có Duy Thức, khởi ra sắc thọ tưởng thành thức, đó chỉ là cái khuôn trống rổng, vì thiếu bột để thành bánh. Thái Tử thời lại khác có cả khuôn lẫn bột đầy đủ chỉ cần người thợ khéo tay sẽ làm ra đủ dạng hình của bánh.
Thái Tử tu luyện thuật biến hoá chỉ trong chốc lác đã thành thục. Thái Tử chỉ khởi tưởng ra hình con cọp to lớn, tưởng mình là cọp đang vồ lấy con mồi, tức thời một lằn chớp nổi lên, Thái Tử biến đâu mất, một con cọp xuất hiện ngay sau đó, chạy nhãy một hồi, con cọp lắng yên tâm trí trở lại, hồi tưởng về mình là Thái Tử, con cọp tức thời rùng mình biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ như thế Thái Tử tu luyện tập đi tập lại Thần Thông biến hoá từ chậm cho đến nhanh, chỉ cần khởi tưởng liền biến hoá được ngay. Đúng là ý đã khởi thời thức đã biến ra hình dạng nào, thời Tinh Khí Thần cuốn hút theo hiện ra hình tướng đó.
Để có pháp thuật Thần Thông biến hoá cao hơn, từ biến hoá đơn tiến lên biến hoá phân thân. Thái Tử ngồi yên lặng 2 bàn tay bắt ấn cung Dần khởi tưởng ra năm con cọp lớn, theo phương vị ngũ hành. Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ. Con màu xám, con màu vàng, con màu đen, con màu trắng, con màu đỏ. Khởi tưởng cho đến khi thấy rõ năm con cọp hiện ra trong tâm thức hết sức sinh động rõ ràng từng bộ phận, sắc lông, miệng mũi, chân cẳng, móng vuốt nhất nhất sinh động rõ ràng. Lúc ấy Thái Tử đã quên mình, và chính mình là năm con cọp, với tư thế sắp vương mình chạy nhảy. Năm con cọp liền hớp một luồng Chân Khí, đồng loạt vương mình tung bay chạy nhảy, tức thời một lằn chớp nổi lên Thái Tử liền biến mất, thay vào đó là năm con cọp to lớn hiện ra, với khí thế hung hảm vô cùng gầm rú chạy nhảy làm vang động cả núi rừng, Chim muôn dã thú kinh hồn khiếp vía, sau một hồi chạy nhảy gầm rú, khí lực hùng hảm dần dần hạ xuống tâm ý trở lại lắng trong, năm con cọp đã nhận thức ra mình là Thái Tử, liền xả ấn rùng mình biến mất hoàn hình trở lại là Thái Tử. Cứ theo phương pháp ấy Thái Tử biến thành năm con cọp, rồi lại hoàn hình trở lại, luyện đi luyện lại mãi, luyện đến xuất thần nhập hoá, vừa khởi tưởng thời năm con cọp đã hiện ra.
Đối với người thường tục cho việc pháp thuật Thần Thông là một sự huyền bí, lắm khi còn cho đó là huyền thoại không thật có. Còn đối với người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cũng như người tu Thiền luyện khí, thời pháp thuật Thần Thông là đều có thật, hể dày công tu luyện thời có nó. Đối với người giác ngộ Chân Tánh, thấu rõ Chân Tâm, thời pháp thuật Thần Thông chỉ là trò ảo thuật khoa học mà thôi. Liên kết ý tưởng liên hợp Duy Thức biến hiện tạo ra cảnh giới Duy Thức vô vi, cuốn hút Tinh Khí Thần hiện ra cảnh giới hửu vi, cảnh giới Duy Thức là hình, cảnh giới vật thể là bóng, hình và bóng giống hệt nhau, liên kết giữa hửu và vô, giữa Thức, Lực và Chân Khí Tinh Khí.
Muốn đạt được pháp thuật Thần Thông phải dựa vào cơ sở yếu tố của nó. Thần Lực, Chân Khí, Tinh Khí và ý tưởng của hệ Ngũ Thức, Sắc Thức, Thọ Thức, Tưởng Thức, Hành Thức và ý thức gọi chung năm thức này là Duy Thức Thần Thông, tất cả cảnh giới trong tâm thức là do năm thức này khởi tạo ra cả, người mê lầm tưởng cảnh giới trong tâm, cảnh giới hiện thực trần gian là thật, còn người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cảnh giới nhân gian là do Duy Thức Chân Tâm, Chân Tánh vũ trụ tạo ra, tất cả chỉ là ảo thuật không thật. Cũng giống như năm con cọp do Thái Tử biến ra tất cả đều không thật. Thái Tử là bật trí huệ Chánh giác, căn cốt vào hàng thượng đẳng, nên tu Thiền luyện khí chỉ có mấy năm thành tựu kết quả ít ai làm nỗi. Thái Tử nhận định, muốn tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, thời việc tu Thiền luyện khí rất cần thiết, vì tu Thiền luyện khí trí huệ sẽ khai mở thời coi như đã có ánh sáng soi đường đi đến tận cùng Cội Nguồn vũ trụ, tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn cứu nhân loại thoát khổ. Muốn tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, việc trước tiên là phải khai thông trí tuệ, như người mù đã được sáng mắt, như người điếc đã được thông tai, sau đó mới nói đến vận dụng. Lực, Hùng, Bi, Trí, Nhẫn, Dũng, Chí, Đức. Để vượt qua bao chướng ngại đến nơi đến đích. Đức tính thương người cứu dân độ thế là động lực thôi thúc Thái Tử vượt qua bao gian khổ, khám phá ra bao bí mật vũ trụ làm lợi ích cho cuộc sống con người.
Thái Tử nhận định việc khai thác tài nguyên vũ trụ, trong đó Thần Lực Thể Lực vũ trụ, Chân Khí, Tinh Khí vũ trụ năng lượng sống là quí hiếm hơn cả. Thái Tử không phải là nhà Đạo sĩ, Tu sĩ mà là nhà khoa học vũ trụ, tìm con đường cứu thế, đưa xã hội nhân loại đến đỉnh cao của sự văn minh Tinh Thần lẫn vật chất.
Theo Thái Tử một xã hội văn minh không chỉ văn minh Tinh Thần lẫn vật chất mà còn văn minh làm trong sạch môi trường, trong lành không khí. Nếu không phải thế, thời xã hội đó là sự văn minh mở đường cho xã hội bịnh hoạn rác rưỡi, mùi hôi thối độc hại khắp nơi, làm thiệt hại cho dân chúng, cho nhà nước rất lớn. Xã hội văn minh là xã hội tự biết phát huy nội lực sẵn có của mình, biết khai thác tài nguyên năng lượng sống vũ trụ, bồi đắp cho xã hội con người. Theo Thái Tử phát huy Thể Lực con người, đẩy lùi bệnh tật, tăng trưởng trí huệ là cơ bản thăng chốt, thiết yếu nhất.
Muốn khai thông trí huệ, Thể Lực con người không chỉ học và hành. Thể Dục Thể Thao luyện quyền múa kiếm mà còn phải tu Thiền luyện khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, Chân Tâm hướng Thiện, duy trì Chính Nghĩa. Phát huy sức mạnh Tinh Thần Dân Tộc, không có con đường nào khác hơn, là tiếp thu Văn Hoá Cội Nguồn, vận hành Văn Hoá Cội Nguồn lưu chuyển khai thông mọi tần lớp xã hội các Đảng phái, Tôn Giáo, các màu da, chủng tộc, anh em tiến gần tới công bằng văn minh xã hội.
Phát huy sức mạnh phát triển vật chất xã hội không có con đường nào khác hơn là hiểu rõ tài nguyên vũ trụ. Khai thác tài nguyên Thần Lực vũ trụ, tao ra điện năng phục cho xã hội đời sống con người. Trong Thể Lực vũ trụ có Điện Lực vũ trụ. Trong Chân Khí vũ trụ có Dầu Khí vũ trụ. Điện Năng và Dầu Khí là 2 nguồn tài nguyên vô giá sống còn của máy móc, hai nguồn tài nguyên này dồi dào, thời mới làm thay đổi được bộ mặt nghèo nàn của xã hội. Ở thế gian máy móc thực dụng phục vụ con người phục vụ phát triển đời sống xã hội, còn ở Thiên Đàng máy móc thực dụng còn gọi là Bảo Bối. Nói cho cùng máy móc thực dụng thế gian hay máy móc thực dụng Bảo Bối ở Thiên Đàng. Mục đích chung cũng chỉ là để phục vụ cho con người đời sống xã hội mà thôi.
Nói về Thái Tử tu luyện pháp pháp thuật Thần Thông cũng vậy, chỉ cần biết cách khai thác tài nguyên năng lượng sống Thần Lực vũ trụ, Chân khí vũ trụ, thu nạp vào bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ con người, khai thác Duy Thức tâm linh làm nên những điều huyền diệu của pháp thuật Thần Thông. Người thường tục sức mạnh Linh Hồn chỉ dựa vào Thể Lực sẳn có tự nhiên của thể xác bộ máy sống con người nhưng Linh Hồn con người không hiểu thế, lại còn hoan lạc phung phí Tinh - Khí lực con người dẫn đến kiệt huệ tinh khí lực nhanh chóng, làm cho thân thể nặng nề yếu ớt đầy bịnh hoạn. Đối với người tu Thiền luyện khí thời thân khẩu ý thường thanh tịnh, như cái lu không bị lủng chảy kín mít, Tinh Lực, Khí Lực, Thần Lực, dồi dào, đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông tự tại, nếu người nào biết kiềm chế hoan lạc, giảm bớt đi sự tiêu hao Tinh Lực Khí Lực Thể Lực con người, thời hạnh phúc sẽ đến với họ vì sức khoẻ quí hơn vàng, những người chỉ biết ham ăn hố uống không kiêng cữ gì cả, hoan dâm vô độ sẽ làm giảm tuổi thọ, bệnh hoạn lũ lược sanh ra.
Xã hội máy móc chỉ cần dồi dào Điện năng và Dầu khí, làm hạ giá thành xuống thấp nhất, thời đời sống phát triển xã hội đó sẽ làm lên bao điều kỳ diệu. Một xã hội đã văn minh về vật chất, lại thêm văn minh về Tinh Thần, thấu triệt Văn Hoá Cội Nguồn, sự kết hợp phát triển ấy sẽ đem lại bao kết quả kỳ tích đến bất ngờ.
Sức mạnh con người nương vào sức mạnh vũ trụ, sức mạnh vũ trụ được con người khai thác một cách có khoa học. Thái Tử đã làm được việc ấy, sử dụng Duy Thức, ý tưởng biến hiện Thần Thông tài tình ảo diệu.
Cứ giáp tuần Thái Tử lại bay về thành Giang Nam Xích Quỷ khu vườn cấm để nhập xác ăn uống tu Thiền luyện khí vận động cơ thể. Quyền pháp, Chưởng pháp, cho huyệt Đạo kinh mạch khí huyết lưu thông, tiếp nối sự sống cho thể xác phàm tục hết ngày rồi lại đến ngày, Thái Tử lại xuất hồn ra đi đến nơi núi cao không dấu chân người tiếp tục tu luyện pháp thuật Thần Thông, khám phá thêm về bí mật của Duy Thức Thần Thông, hầu thấu rõ tài năng biến hoá của. Chúa Tể Ma Vương và Đại Quỷ, chúng được che đậy bởi cảnh giới vô minh.
Để tiến cao thêm pháp thuật Thần Thông hơn nữa, Thái Tử liền co tay bắc ấn cung Thìn niệm tưởng rùng mình liền hoá ra năm con Rồng to lớn và từ năm con Rồng to lớn mỗi con lại hít một luồn Chân Khí làm chuyển động cả núi non, sau đó thời mỗi con Rồng tự biến hoá ra hàng nghìn hàng trăm con Rồng, với cách biến hoá này thời Quỉ Ma khiếp đảm sợ đến mất hết hồn vía rụng rời chân tay với cách biến hoá này đừng nói Ma Quỉ mà ngay cả Thiên Tiên, Địa Tiên cũng ít người làm nỗi. Trên đỉnh núi cao hàng vạn con Rồng xuất hiện, làm khiếp đảm chim muôn vạn Thú. Thái Tử không những đạt đến cảnh giới tối cao của thuật phân thân, cả thuật phân Tánh chỉ có những bật hiểu ngộ Chân Tánh, làm chủ Chân Tánh mới làm nổi.
Cách tu luyện phân thân, phân tướng, phân tánh, phân ý này là pháp thuật Thần Thông Chí Tôn vô thượng, nếu quên mất mình là ai thời khó mà hoàn hình trở lại, hàng vạn con Rồng sau cơn làm mưa làm gió, Thần Lực Khí Lực đã giảm sút, hàng vạn con Rồng nhận thức ra mình là Thái Tử tức thời hàng vạn con Rồng liền biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ thế Thái Tử hết tu luyện hoá Cọp rồi tới tu luyện hoá Rồng, hết hoá Rồng rồi đến hoá Công, hoá Phụng, hết loài này sang loài khác và sự tập luyện biến hoá như thế cũng mất cả hàng năm ròng.
Một hôm Thái Tử nhìn cây sanh cổ thụ hàng nghìn nghìn năm, nghĩ ta đã tập phép biến hoa Chim muôn, vạn Thú, con người, Thần Thánh cho đến các loài Ma Quỉ v.v… Ta chỉ dùng ấn thập nhị Địa Chi, ấn tam muội, ấn lưỡng nghi Âm Dương, chứ chưa dùng đến ấn ngũ hành, Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. Thế là Thái Tử dùng ấn ngũ hành để tu luyện biến hoá ra đất nước, gió lửa, cảnh quang cây cối, núi sông.
Thái Tử ngồi yên lặng với tư thế toạ thiền, ngón tay giữa ấn vào giữa lòng bàn tay, rồi ngón tay cái ấn chặt đè lên ngón tay giữa, rồi khởi tưởng ra Cội sanh, cành lá sum sê, gốc rễ chằng chịt, giống hệt cây sanh Cổ Thụ trước mắt. Trong Tâm Thái Tử cây sanh Cổ Thụ đã hiện ra nhất nhất rõ ràng, ý thức Thái Tử liền khởi động cây sanh do sắc, thọ, tưởng, hành lập nên lúc Thái Tử nhận thức cây sanh là mình, mình là cây sanh tức thời một lằn chớp nỗi lên Thái Tử biến mất, thay vào đó là một cây sanh to lớn Cổ Thụ đã hiện ra giống hệt cây sanh Cổ Thụ kia, nếu lúc này có người xuất hiện thời không thể nào phân biệt được cây nào thật cây nào giả.
Nói về pháp thuật Thần Thông, thời không phải con người tu luyện mới có mà ngay cả Chim muôn vạn Thú, Ma Quỉ chỉ cần tu Thiền luyện khí lâu năm là có pháp thuật Thần Thông, kể cả các loài cây, cỏ sống hàng nghìn nghìn năm cũng có pháp thuật Thần Thông nhưng không được cao minh lắm.
Thái Tử vốn con người làm chủ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, từ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, tu Thiền luyện khí kết tụ nhị xác thân, Thân Tướng Tiên Thiên, thọ ngan trời đất. Chim muôn vạn Thú các loài Ma Quỉ làm sao sánh được, đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp. Nhị xác Thân là thân tướng, vừa vô vi vừa hửu vi, có thể thấy mà cũng có thể không thấy tuỳ tâm ứng dụng, vì cái thân ấy là cái thân tam bữu Tinh Khí Thần. Thần Lực, Khí Lực và Tinh Khí, cái thân này muốn biến, muốn hiện là đều do Duy Thức tạo ra. Như trên Kinh đã nói Duy Thức Thần Thông là Duy Thức ngũ uẩn biến chuyển, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức, ý thức, năm Duy Thức này đều gọi là tâm thức, năm Duy Thức này đều gọi Duy Thức ảo thuật máy móc tâm linh.
Có thể ví dụ 5 thức này như sau, ví như 5 người thợ vẽ, mỗi người có 1 cái tài khác nhau đồng vẽ 1 con chim. Người thứ nhất vẽ hình con chim. Người thứ hai vẽ lông cánh sắc màu con chim. Người thứ ba vẽ sự cảm giác cái biết của con chim. Người thứ tư vẽ sự động chuyển của con chim và người thứ năm rất quan trọng vẽ ý thức, con chim tự nhận thức ra mình rồi đập cánh bay mất. Hay có thể nói rằng năm nét vẽ chung nhau tạo lập lên con chim như thật, pháp thuật Duy Thức Thần Thông là thế. Con Chim do năm thức tạo nên là Hình, còn Tinh Khí Thần theo hình hiện bóng mà thôi, đó là thể xác hay thể chất của con Chim. Khi hình biến thời bóng theo đó cũng tan theo hình, trở về căn cội của nó.
Thể Lực vũ trụ ngày nay đã được con người khai thác, bằng cách dùng lực nam chân khuấy động Thần Lực vũ trụ thu hút tạo ra hai dòng từ trường điện lực phục vụ máy móc, phục vụ con người.
Người chưa giác ngộ Chân Tánh không bao giờ hiểu được điều nầy, đã khai thác khuấy động Thần Lực vũ trụ, tức là đã động đến bản thể Linh giác của Đức Cha Trời, vì sao lại như thế Vì trên Thần Lực vũ trụ, chính là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ có 2 phần, Trí Thân và Giác Thân. Khi chúng ta khai thác Thần Lực vũ trụ, nói theo nghĩa Đạo, khai thác Thể Lực vũ trụ nói theo nghĩa đời.
Thần Lực vũ trụ hay Thể Lực vũ trụ cũng chỉ là một, thời coi như chúng ta đã động đến Linh giác pháp Thân của Đức Cha Trời. Linh giác pháp thân vũ trụ có tánh thấy nghe hay biết tự nhiên. Khi Linh giác bị khuấy động liền trở thành Linh Thức. Linh Thức nầy sinh ra thời Tánh thấy nghe hay biết của Linh Thức cũng hiện rõ, trong điện lực hiện ra. Để hiểu thêm về Linh giác vũ trụ một khi đã bị khuấy động, liền tạo ra Linh Thức chớ không phải tạo ra ý thức, linh thức trong điện lực không có ý thức.
Người ta chỉ nghĩ vì sao điện năng lại kỳ diệu đến như thế. Phải nói là vô tận của sự kỳ diệu vì họ không hiểu trong Thể Lực vũ trụ, có Linh giác vũ trụ. Thể Lực vũ trụ bị khai thác, bị khuấy động trở thành điện lực. Thời Linh giác của Thể Lực vũ trụ theo đó biến thành Linh Thức của điện, mà Linh Thức của điện chính là Linh giác vũ trụ hiện ra. Linh giác vũ trụ đã biến thành Linh Thức của điện. Đức tính thấy nghe hay biết của Linh Thức Điện Lực cũng không có gì thay đổi so với tính thấy nghe hay biết của Linh giác của Thể Lực, vì cái tính thấy nghe hay biết liên tục không đứt đoạn hay gián đoạn, cái thấy nghe hay biết truyền miên. Vì thể nó sẽ giữ mãi cảnh giới, màu sắc, hình ảnh, khi nó đã tiếp thu sao chép.
Thời nay một số đông người xem ti vi truyền hình, quên lửng hình ảnh sống động như thật hiện ra trong ti vi truyền hình, cứ ngỡ đó là người thật nào hay đâu những hình ảnh sống động đó chỉ là hình ảnh sao chép của Điện mà thôi, như trên đã nói trong Điện có Linh Thức của Điện làm nên sự kỳ diệu đó.
Nói đến cảnh giới trong Linh Thức của Điện thời có 2 phần, Linh Thức vô sắc và Linh Thức hửu sắc. Linh Thức vô sắc là Linh Thức trong sạch. Linh Thức hửu sắc là Linh Thức đã chuyển thành màu sắc, hình ảnh, cảnh quang mà ta đã thường thấy qua màn hình ti vi.
Nhìn Thái Tử đã dùng bốn Đức tính tự nhiên thấy nghe hay biết tạo lập cảnh giới trong tâm thức hiện ra cây sanh Cổ Thụ, nhưng chỉ bốn Đức tính này dù đã liên kết với nhau cũng không thể biến hoá hay sống động như thật được, vì còn thiếu một thức chủ lực chủ chốt nữa, đó là ý thức Thần Hồn của Duy Thức. Trong cảnh giới hình ảnh sống động của Điện chỉ có Linh Thức (sắc - thọ) sắc thức, thọ thức. Còn tưởng thức, hành thức, ý thức chưa có. Hình ảnh trong Điện lực chỉ là hình ảnh sao chép của Linh Thức, sắc thức - thọ thức mà thôi. Chỉ có 2 thức này mà đã làm cho Điện đa năng kỳ bí ảo diệu vô cùng, vì sắc thức - thọ thức, Linh Thức của Điện, còn có nhiều tính khác nữa như tính phân biệt, tính đo lường v.v… Huống chi Linh Hồn con người, chỉ nói đến mỗi chủng tánh, thời có đủ ngũ thức, Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, thời diệu dụng huyền diệu biết đến dường bao, huống chi là cả một hệ thống chủng tánh Thiện, Ác, Mê, Ngộ trong tâm linh của mỗi con người.
Nhưng xưa nay mấy ai làm chủ được tánh Linh của mình đâu, tâm viên ý mã rong ruổi mãi, lúc này lúc nọ, thọ lảnh biết bao nhiêu là sự khổ. Người Đại giác ngộ luôn luôn làm chủ Chân Tánh của mình để làm nên bao nhiêu việc kỳ diệu khám phá vũ trụ chinh phục vũ trụ giang sang máy móc mà Tổ Tiên đã tạo ra. Thái Tử tập Thần Thông biến hoá càng lúc càng cao cường, biến hoá ra núi ra sông hồ ao biển, để đạt đến đỉnh của Thần Thông biến hoá, Thái Tử chuyển sang giai đoạn hô phong hoán vũ, chuyển mình thành giông Bão mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm.
Một hôm trên đỉnh dãy núi cao Trời đang vào hạ, bổng dưng khí Trời lạnh lẽo mây đen xuất hiện phủ kín đầy Trời, cuồng phong mỗi lúc mỗi thêm dữ dội, chuyện lạ ấy là do Thái Tử tạo ra. Hôm ấy Thái Tử tưởng thân hình to lớn đến vài chục dặm và cao lên tận các tần mây, tay tả ấn cung tốn, tay hửu ấn cung đoài. Thái Tử hớp lấy Chân khí vũ trụ, nuốt chửng vô số tần mây, Thái Tử liền tưởng ra một cơn mưa bão, tức thời thân hình to lớn của Thái Tử biến mất thay vào đó là cơn mưa bão lụt lội khủng khiếp sấm sét ầm ầm rung chuyển cả không gian trong phạm vi hơn trăm dặm, cát bay đá chạy, cây cối ngã đổ, núi đồi sụp lở, sức tàn phá của cơn bão lụt khủng khiếp, Chim muôn vạn Thú chết vô số kể, cơn mưa bão kéo dài đến mấy giờ liền sau đó thời tạnh hẳn. Thái Tử đã trở lại nguyên hình.
Thái Tử nhìn thấy cảnh tượng đổ nát xơ xác chết chóc thời giật mình hối hận, đã gây tổn hại đến cỏ cây, sinh linh vạn vật Thái Tử còn nhìn thấy, mước nguồn đổ về khủng khiếp tràn ngập khắp nơi làm thiệt hại con người. Thái Tử nghĩ quả thật Thuỷ, Hoả, Phong là tam tai của thế gian. Từ đó Thái Tử không tu luyện pháp thuật biến hoá ra Thuỷ Hoả Phong nữa sợ gây tổn hại cho sinh linh muôn loài vạn vật.
Thái Tử giờ đây có thể nói đã trở thành ông Tổ của pháp thuật Thần Thông. Ánh sáng tâm Linh đã xuất hiện, như báo hiệu Mặt Trời trí huệ sắp ra đời. Bọn Ma Vương cùng Đại Quỉ vô cùng khiếp sợ trí huệ Thần Thông của Thái Tử. Chúng rủ nhau lùi dần vào bóng u minh, vì chúng biết Mặt Trời trí huệ sắp xuất hiện. *********
Hết phần 1 chương 10 mời xem tiếp phần 2 chương 10 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Chỉ có Quốc Tổ mới có sức thần thông trí huệ vô biên phá vỡ Vô Minh nhanh chóng tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, nhưng rất tiếc vì thời đó không có giấy bút cũng như chữ viết để lưu chép kinh văn chỉ truyền miệng cho nhau, dẫn đến tam sao thất bổn dần dần Văn Hoá Cội Nguồn biến mất không còn. Thế mà vẫn kéo dài độc lập 2701 năm, huống chi có kinh văn thời coi như độc lập muôn năm cuộc sống không khác chi trên các cõi trời. Thiên đàng cực lạc trần gian. Văn Hoá ra đi giờ trở lại Việt Nam vận hội khắp bốn phương Địa Long Thánh Địa bừng toả sáng Lạc Hồng Con Cháu dậy mùa xuân.
Thái Tử nghỉ pháp thuật Thần Thông chỉ là cảnh giới của Duy Thức biến hoá mà thôi, muốn tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, phải làm chủ Duy Thức làm chủ Chân Tánh vào cảnh giới tự nhiên Chánh Định, tiến tới đỉnh cao nhất của sự giác ngộ, hội nhập bản thể Cội Nguồn, Thức Tánh trở về Chân Tánh, bọt nước trở về bản thể nước, đi thẳng vào cảnh giới vô thức, vô ý, vô trí thấy nghe hay biết tự nhiên không một niệm khởi tưởng vào cảnh giới tự nhiên Chánh giác.
Thái Tử bay về thành Giang Nam nước Xích Quỉ khu vườn cấm, tiếp tục hành trình tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, pháp tạng vũ trụ, cũng như lời dạy của Đức Cha Trời, truyền bá để lại thế gian. Thái Tử đã vượt qua cảnh giới Thiên Tiên, Địa Tiên nhưng Văn Hoá Cội Nguồn còn quá xa. Vì cảnh giới Thiên Tiên chỉ lanh quanh lẩn quẩn trong cảnh giới Duy Thức, huống chi là Địa Tiên.
Địa Tiên chú trọng về luyện khí, Thiên Tiên chú trọng về luyện pháp. Sau 2 giờ vận hành Chân khí, tiếp đến là hít thở bằng các lỗ chân lông, sau đó liền đi vào cảnh giới nhập định, từ đây về sau Thái Tử không xuất hồn ra khỏi thể xác Tiểu Thiên vũ trụ nữa, vì thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ rất quan trọng cho cuộc hội nhập trở về Cội Nguồn. Thái Tử nhập định xong các giác quan đều hướng ngược vào trong.
Có nghĩa là thấy nghe hay biết trong nội thể tiến lần lên thấy nghe hay biết trong nội tâm. Ví dụ: Tai không nghe bên ngoài nữa mà nghe ngược trở vào nội thể nghe tim đập nghe máu huyết lưu thông, sau đó nghe về tánh nghe của mình, sáu Căn vốn thanh tịnh, nên sáu Căn Thức cũng mau chóng đi vào vô thức vào cảnh giới đại định, lục thông liền khai mở tối đa.
Thái Tử liền thấy nhân loại trần gian thật đáng thương, sống mãi trong cảnh sanh già bịnh chết, sum hộp để rồi chia ly, vui thì ít khổ thời nhiều, luân hồi sanh tử, khổ này chưa dứt khổ khác đã chồng lên, khổ về lạc hậu, đói nghèo, khổ về chiến tranh áp bức, khổ về tù đày nô lệ hành hạ dã man, khổ mất tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, đã bị kẻ quyền thế cướp đi, khi nào cần chúng lại ban cho một ít. Đây Quyền tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc của các nô lệ ngươi đây. Nhưng thật ra chúng có bao giờ trao trả những Quyền mà Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi người đâu, toàn là lời bịp bộm giả dối.
Nhìn thấy cảnh con người làm khổ con người, không những khổ ở thế gian còn khổ sang Địa Ngục, cái khổ triền miên bám lấy con người, bám lấy hồn người, hồn sa địa ngục thời quyền thế còn đâu do ác nghiệp dấy khởi sa đoạ vào Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh Có cảm có ứng, ác gieo ác gặt nhìn cảnh Địa Ngục Linh Hồn bị lửa đốt, Kiếm đâm, chết ở ngục này sanh qua ngục khác, cảnh khổ không sao diển tả cho hết được. Nhìn cảnh Linh Hồn bị róc thịt, lột da, nấu dầu, moi tim, rút gân vô cùng thê thảm, những cực hình dã man đau đớn nhất được đem ra sử dụng. Nghỉ mà đau lòng ai cứu lấy họ đây, lớp người trước rơi vào Địa Ngục, lớp người sau tiếp tục sa chân.
Còn cái khổ nào hơn khi đã sa đoạ vào kiếp Quỉ, có ai muốn mình trở nên xấu xí như thế, đầu chẽ, mắt lồi, miệng thối, người hôi, những răng nanh trông thật gớm ghiết, mình đầy gai nhọn, da thịt xù xì còn hơn da cóc thấy mà phát tởm, phải sống nơi dơ bẩn, như Quỉ Lông Mao, chuyên ăn phân người thây thúi, sống trong cảnh giới tanh hôi, lủi thủi nơi hoang vắng bóng đêm, cô đơn tẻ nhạc hết trăm năm này sang trăm năm khác, cái khổ nào hơn đã sanh vào loài Quỉ.
Loài ngạ Quỉ còn khốn khổ hơn nữa, đầu to như núi cổ nhỏ như kim, nuốt rất khó đói khát truyền miên, đói đến nổi mũi phun ra khói, khác đến nổi miệng tuôn ra lửa ôi còn cái khổ nào hơn. Những thống khổ này không ai tạo ra cho mình cả, mà do chính mình tạo ra, gieo nghiệp ác kết quả phải thọ lảnh quả báo như thế, cũng chỉ vì Lạc Đạo sai đường, không làm chủ được tánh Linh của mình, chạy theo dục vọng đê hèn luôn luôn khởi tâm dấy nghiệp ác, lặn hụp mãi trong biển khổ trầm luân, hết kiếp người rồi tới kiếp Địa Ngục, hết kiếp Địa Ngục lại sanh kiếp Quỉ, hết kiếp Quỉ lại đến kiếp súc sanh, cứ thế lanh quanh lòng vòng khốn khổ mãi.
Thái Tử dùng huệ nhãn soi rọi chốn nhân gian, thấy Thiên Đàng không có đường lên còn Địa Ngục thời muôn vạn lối để đi xuống. Ta xem chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, đưa Thiên Hạ đến con đường hạnh phúc, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để xưng hùng xưng bá mà thôi. Cứu Thiên Hạ thoát khổ chỉ có con người mở rộng tấm lòng từ bị. Chiến thắng dục vọng đê hèn, chiến thắng tội lỗi, làm chủ Linh Hồn, làm chủ Chân Tánh. Đem ánh sáng Cội Nguồn đến với Thiên Hạ, giải thoát Linh Hồn về Thiên giới, khỏi phải luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Kiếp làm Súc Sanh nào có vui gì như đầu thai làm Heo, Gà, Trâu, Bò, Dê, Ngựa, Chó, Mèo v.v… Kiếp bị người xẻ thịt nấu nhừ rán mỡ, nếu sống nơi hoang dã cũng chỉ làm mồi cho Sói, Hổ, Báo mà thôi. Sự vay trả, trả vay không dứt, may nhờ chút phước thiện, mới sanh được làm người. Linh Hồn chuyển kiếp sanh ra làm người rất khó, đã được sanh ra làm người, may mắn không tật nguyền khoẻ mạnh, lại có chút trí huệ mà bỏ lở cuộc hướng lành, thời uổng lắm thay. Một phen mất thân người muôn kiếp khó trở lại.
Thái Tử là nhà khoa học Tâm Linh, thấu rõ mọi ngõ ngách huyền bí của Tâm Linh, trở thành nhà tu Thiền nhập Định cừ khôi, không dính mắc hay cảm xúc trước một hoàn cảnh, dù thuận hay nghịch, dù khổ hay vui đang xảy ra. Lúc nào cũng tự tại an nhiên, không khởi tưởng phân biệt chấp trước, luôn ở vào phương tiện khách quan ngoài cuộc. Vì không khởi tưởng phân biệt chấp trước nên lục thông càng lúc càng nhiệm mầu, huệ quang càng lúc càng sáng tỏ. Có thể nói Thái Tử đã đạt đến cảnh giới của bậc Tổ Thiền. Thấy như không thấy, nghe như không nghe, luôn luôn làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, không khởi tưởng phân biệt Chánh Định. Lái con thuyền Tâm Linh mỗi lúc mỗi tiến sâu về Cội Nguồn Mật Tạng vũ trụ. Thái Tử nhìn thấy Thiên Đàng, nhìn thấy Địa Ngục, hai cảnh giới trái ngược nhau,. Một cảnh giới Cực Lạc, một cảnh giới cực khổ nhưng Thái Tử không lộ cảm xúc nào cả Cho dù đó là Ma Vương, Đại Quỉ tới làm hại Thái Tử. Không phải Thái Tử là nhà vô cảm mà là nhà khoa học tâm Linh, thấu hiểu Luật Thiền Định. Chỉ cần 1 niệm khởi của tâm Linh thời huệ quang giảm sút ngay không thể nào tiến sâu vào cảnh giới Mật Tạng vũ trụ được nữa. Vì Ma chướng đã khởi lên ngăn chặn. *********
Hết phần 2 chương 10 mời xem tiếp phần 3 chương 10 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
CHƯƠNG 10
PHẦN 3
NIỀM TIN ĐỨC TIN LÀ NỀN TẢN DẨN ĐẾN MỌI SỰ THÀNH CÔNG
Con đường tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn là một việc làm vô cùng khó khăn, phải theo phương pháp độc nhất vô nhị. Biết cách làm phát sanh ngọn lửa ý thức hiểu biết cao phát huệ rồi tiến tới Đại huệ Chánh Đẳng Chánh giác. Điều trước hết là đầy đủ niềm tin Đức tin. Tin mình làm được, tin sự quyết đoán của mình, ý mong cầu giải thoát, giải thoát cho mình, giải thoát cho người, giải thoát cho toàn nhân loại.
Thái Tử sanh ra và lớn lên như bao người phàm tục, nhưng khác hơn phàm tục là lòng thương yêu nhân loại vô bờ bến, lại thêm đầy đủ Niềm tin, Đức tin và tin vào sự quyết đoán của mình. Ý tưởng lý tưởng đã vượt lên trên nhân loại phàm phu, chưa tu mà đã trở thành người Đại Thiện, chưa học Đạo mà giới luật tinh nghiêm. Tấm lòng bao la rộng mở thương yêu nhân loại, như thương yêu chính bản thân mình.
Thái Tử đã hội tụ đủ yếu tố, bản thân, gia đình, xã hội, Đức tin, Chân Thiện và giới Luật tinh nghiêm, nên Thái Tử đã mau chóng trở thành Đức Chí Tôn Quốc Tổ vừa là Đấng cứu thế vừa là nhà lãnh tụ xã hội. Thiên tài cả Đời lẫn Đạo có một không hai trong nhân loại con người. May mắn thay tốt đẹp thay cho con cháu Văn Lang ngày xưa, cho con cháu Việt Nam ngày nay. Vì vậy con cháu Việt Nam muốn đến với Tổ Tiên Cội Nguồn. Trước hết phải đầy đủ Đức tin, niềm tin và tự tin mình sẽ làm được những gì mà ông Cha ta đã làm. Đi theo Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thời rất dễ, vì Quốc Tổ đã xây cầu đắp lộ cho ta đi. Chúng ta chỉ cần nổ lực cần mẩn làm theo, học theo lời dạy trong Kinh, làm phát sanh ngọn lửa trí huệ, để rồi hội nhập vào Cội Nguồn làm chủ lấy mình, làm chủ xã hội, tiến xa hơn nữa là làm chủ vũ trụ giang sang Tổ Tiên lập lên cho chúng ta.
Thái Tử là Đấng Chí Tôn đầu thai xuống thế. Đức Chí Tôn là con cả của Đức Cha Trời. Theo lịnh của Đức Cha Trời xuống chốn nhân gian sanh vào bụng mẹ, nên đã quên kiếp trước của mình. Không biết mình là ai, tất cả phải làm lại từ đầu, mở đường khai lộ cho chúng ta đi. Nhưng việc mở đường khai lộ gian nan và đầy dẫy khó khăn mà Thái Tử từng bước từng bước hình thành xây dựng lên con đường đó. Mỗi chặn đường là mỗi Tinh Hoa Đạo học xã hội quí hiếm vô cùng. Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là Đạo pháp Chí Tôn vô thượng. Xưa kia thời Thiên Ấn, chỉ truyền cho Quốc Vương kế vị trị quốc an dân. Nhưng thời nay đã khác Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là của toàn nhân loại, vì tất cả nhân loại đều là con cháu nhà Trời. Thời nay là thời có cả Thiên Ấn lẫn Thiên Bút, giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự tiến hoá Linh Hồn đỉnh cao của nhân loại con người ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp thứ 9. ********* Hết phần 3 chương 10 mời xem tiếp phần 4 chương 10 Long Hoa Mật Tạng. Những gì mà thế hệ nhân loại thừa kế thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Báu vật Long Hoa Mật Tạng, kho tàng tri kiến vũ trụ, những tinh hoa Mật Tạng vi diệu thâm thâm không thể luận bàn cho hết được những người may mắn sự thừa kế và sở hửu bộ kinh nầy. Thời coi như Cha Trời đã chọn lựa vào ngôi Thế Tôn, Chí Tôn. Chuyển đại pháp luân thay Cha Trời cứu nhân độ thế. Đưa nhân loại về trời vào ngôi nhà chung vũ trụ, sống mãi trên Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ nghe một chữ Mật Kinh Thăng hoa cuộc sống bước chân về trời Đời đời kiếp kiếp đời đời Hết sa địa ngục sang giàu triền miên Huống chi đọc tụng chép in Ra thân truyền bá cứu dân độ đời Cháu con danh rạng sáng ngời Ông Bà, Cha Mẹ vãn hồi siêu thăng Chỉ cần tin nhớ một câu Tai qua nạn khỏi biết bao phước lành Huống chi đọc tụng thuộc lòng Phật, Tiên, Thánh, Chúa, Tổ, Thần khó chi.