KINH DƯƠNG VƯƠNG vẫn giữ một thói quen là giữa tháng đến ngày rằm Trăng tròn đến lầu vọng Nguyệt để ngắm Trăng nghiền ngẫm Đạo Pháp tu thiền luyện khí. Lần này có khác Kinh Dương Vương dẫn theo Thái Tử, hai cha con Kinh Dương Vương vừa đi vừa nói chuyện. Thái Tử là người nhạy cảm, lại hay chú tâm quan sát cảnh vật. Thái Tử nghĩ mới trong nháy mắt, mọi cảnh vật hầu như thay đổi hoàn toàn. Mặt Trời vừa lặng, màn đêm buông xuống rất nhanh, Lâu đài Cung Điện, cảnh vật non sông ngập chìm trong màn đêm hết thảy.
Cảnh chiều tà nhìn quê hương Tổ Quốc xinh đẹp làm sao, còn giờ đây quê hương Tổ Quốc chỉ là màn đen u tối, sáng và tối hai cảnh giới khác biệt nhau. Cảnh Thiên Đàng và cảnh Địa Ngục. Một cảnh giới đầy sức sống muôn màu muôn sắc đẹp làm sao, người thi nhau thọ hưởng, chim thi nhau ca hát, Thú Cầm gầy tình gầy bạn, cỏ cây khoe trái, khoe hoa. Luỹ tre, đồng ruộng mái lá nhà tranh rộn tiếng cười, cánh Cò trắng Lã lượng bay vui, đàn Bò, đàn Trâu vui ngúc ngoắt. Mục Đồng thổi sáo cánh Dều bay, cảnh quang vui đẹp tâm Hồn đầy sức sống.
Còn cảnh tối mê lầm lạc hoạ tai bay. Nhìn cảnh đêm đen Thái Tử cảm thấy nổi buồn xa xăm, cô đơn lạnh lẻo như đang ở cõi Âm Cung. Như ẩn chứa bao điều tai hoạ chẳng lành thầm bí. Phải chăng cõi nhân gian là cánh cửa để bước vao cõi Thiên Đàng, cũng như cõi Địa Ngục âm phủ. Phải chăng sáng và tối đã nói lên một điều. Ánh sáng Chính Nghĩa tắc đi không còn, thời u minh bóng tối trùm lấy nhân gian như báo hiệu chiến tranh sẽ xảy ra, mở rộng lan tràn khắp Địa Cầu. Ánh sáng Tâm linh Chính Nghĩa đã tắc, thời thế giới Cáo Sói Rắn Rít hiện ra, nhân loại đi vào đại nạn khốn khổ, cuộc sống đe doạ từng ngày.
Thái Tử chìm đắm trong suy nghĩ, thời ánh Trăng cũng đã lên từ lúc nào, ánh Trăng êm dịu hiền từ như người Mẹ quê hương ôm lấy những người con lạc lỏng trong đêm tối. Ánh Trăng chiếu xuống lầu đài Cung Điện sơn phết một màu bạc nhưng cũng để lại loan lổ những chỗ đen tạo ra do vật cản ánh sáng. Những cảnh tượng loan lổ chỗ đen ấy như nhắn nhủ với con người rằng. Thế lực đen tội ác ẩn mình sau lớp thiện, ánh Trăng không thể diệt nỗi chúng, và chúng cản mình che khuất ánh Trăng để bóng đen tồn tại hiện ra. Và chỉ có ánh Mặt Trời thời chúng mới chịu tan biến hoặc ẩn mình nơi hang cùng ngõ hẻm.
KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn Thái Tử lúc nào cũng trầm tư như vậy. Liền buông tiếng cười thở dài, tiếng thở dài của người Cha đã đánh động tư duy suy tưởng làm cho Thái Tử giật mình, mới hay mình đã đến lầu vọng Nguyệt từ lúc nào.
Kinh Dương Vương nắm tay Thái Tử như truyền hơi ấm nói lên rằng: Có Cha đây, Cha sẽ là ngọn Thái Sơn che chở cho con lúc Đông về.
Thái Tử được Cha dắt lên lầu vọng Nguyệt, cặp ghế Rồng ghế Phụng như cũng đã biết mình có bổn phận nâng đở Cha con Kinh Dương Vương yên nghỉ hoà mình vào cảnh giới Đêm Trăng. Xa xa tận chân Trời vừng hào quang dịu mát phát ra từ vần Trăng tròn trịa nhô lên khỏi khóm tre già. Cảnh vật thi nhau im lặng tận hưởng ánh Trăng êm ã, sau một ngày vật vã với cái nắng chang chang. Ánh Trăng đến ánh Trăng đi không mang theo sự vui buồn của nhân gian, vô tư trong sáng chẳng nhiễm chút bụi trần nào cả.
Nhưng con người thì khác hẳn, sanh ra ở đời đắm chìm gian ác, tham lam ganh gét, hận thù làm tâm Hồn bẩn nhơ, làm hôi hám xã hội. Nhưng rốt cuộc thời được những gì, tất cả chỉ là con số 0.
Kinh Dương Vương lại nghe tiếng thở dài Thái Tử. Sự việc ở đời rốt cuộc rồi cũng thế, cuộc đời khác nào vần Trăng, lúc thời mờ lúc thời tỏ, khi tròn khi khuyết, khi đầy khi vơi. Thiên Nhiên vẩn còn chơi trò biến ảo, huống chi là cuộc sống con người luật tuần hoàn cứ lặp đi lặp lại, hết mưa rồi nắng, hết ngày tới đêm. Xuân Hạ Thu Đông cứ luân phiên chuyển hoá, hết xuân rồi lại tới xuân, xuân đi rồi xuân lại về. Chỉ có không gian lúc nào cũng rộng lớn vẩn thế, không đi không đến như như tự tại. Tuy ở sát người thế mà không mấy ai với tới cả.
Thái Tử nghĩ chốn nhân gian này khó tìm ra hạnh phúc vĩnh cửu vì trần gian chỉ là nơi cõi tạm. Những thứ hạnh phúc tạm thời, chóng đến rồi cũng chóng đi, chóng sum hợp rồi cũng chóng chia ly. Mọi sự ở đời hể có gieo thời có hưởng, hoạ hay phúc đều do con người triệu nó đến, tất cả đều có căn có cội.
Kinh Dương Vương nhìn con trầm tư suy nghĩ không hiểu con ta nghĩ những gì, sao lúc nào cũng trầm lặng suy tư như vậy, khổ cho con ta quá.
Thái Tử bổng loé lên ý nghĩ liền hỏi Cha: Cha có từng nghe đến Quả tim Nhân Loại chưa? Cha có từng nghe đến bất chiến tự nhiên thành chưa?
Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc, vì đây là lần đầu tiên nghe câu hỏi lạ, lạ đến nổi Kinh Dương Vương phải ngớ người ra.
Kinh Dương Vương nói: Con hỏi gì lạ vậy ở đời ai không có quả tim.
Thái Tử trả lời: Thưa Cha! Không phải con hỏi Quả tim con người mà ai ai cũng có, mà con nuốm hỏi đến Quả Tim xã hội. Quả Tim truyền thống. Quả Tim chính nghĩa của chủ nghĩa.
Kinh Dương Vương nghe con nói như thế thời càng thêm kinh ngạc không biết trả lời sao.
Thái Tử nhìn Cha nói: Quả Tim Nhân Loại là Quả tim vì người mà sống, không phải vì mình mà sống. Quả tim vì mình mà sống ai ai cũng có. Còn Quả Tim vì nhân loại mà sống thời rất hiếm. Quả tim xã hội là Quả tim của mọi người, của mọi tần lớp nhân dân, Quả Tim Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp khi quả tim ấy đập lên thời toàn xã hội như được hồi sinh trở lại, đời sống xã hội tươi vui, đâm chồi nẫy lộc đơm hoa kết trái. Thái bình Độc Lập tự do hạnh phúc. Quả tim ấy mang hơi thở truyền thống Cội Nguồn dòng máu Cha Ông làm cho Con Cháu hiện tại đoàn kết muôn người như một. Làm cho nhân loại đâm chồi Chính Nghĩa, nở hoa tự do, kết quả hạnh phúc. Nếu xã hội non sông Tổ Quốc nào toàn dân đều chung sống cùng một quả tim ấy. Quả Tim công bằng bình đẳng văn minh, thời còn lo gì không sống trong cảnh thái bình an lạc. Khi nhân loại có Quả Tim vì người không vì mình, mỗi nhịp đập của quả tim ấy là mỗi lần đem mùa xuân đến cho cuộc sống xã hội, đơm hoa kết trái sang giàu làm đẹp cho quê hương Tổ Quốc non sông.
Kinh Dương Vương nghe con nói như thế, thời kinh ngạc đến sửng sốt hỏi lại: Có Quả tim đó thật sao.
Thái Tử nói: Thưa Cha! Chỉ có Quả Tim vì Nhân Loại mới cứu nổi Nhân Loại. Quả tim của sự bất chiến tự nhiên thành. Quả tim Nhân Loại là quả tim công bằng bình đẳng không thuộc ở cá nhân riêng mình mà quả tim chung cho toàn xã hội. Nhân loại khổ là Quả tim ấy khổ, nhân loại vui là Quả tim ấy vui. Quả Tim luôn phục vụ cho cuộc sống nhân loại con người.
Kinh Dương Vương nhìn Thái Tử đầy vẻ thương yêu nói: Không có Quả tim đó đâu con. Hiện nay trên toàn thế giới ngoài quả tim con người ra những bậc Vương Chúa họ còn có Quả Tim độc tài độc trị, làm gì có quả tim nhân loại.
Thái Tử nói: Thưa Cha! Làm Quốc Vương mà chỉ biết về mình, gia đình mình, dòng Họ mình, Tổ Quốc của mình thời vị Quốc Vương ấy chưa có Quả tim Nhân loại xã hội. Lúc nào cũng nói vì dân vì nước, vì nhân loại thế giới nhưng thật ra tất cả cũng chỉ là cũng cố quyền lợi cho riêng của mình mà thôi.
Thái Tử lại nói: Vị Quốc Vương có Quả tim Nhân Loại, thời dân chúng chính là máu thịt của người. Nhân loại là anh em một nhà Dân chúng bị tổn thương thời chính ngài tổn thương, nhân loại khốn khổ thời người khốn khổ. Người có Quả tim vĩ đại ấy cứ mỗi nhịp đập là mỗi công bằng văn minh đem lại cuộc sống yên bình cho nhân loại.
Kinh Dương Vương như chợt hiểu nói: Con muốn nói đến Quả tim của Chuyển Luân Vương sao? Chỉ là huyền thoại thôi con.
Thái Tử nói: Không phải huyền thoại đâu Cha. Những ai hết lòng thương yêu nhân loại, thương yêu dân chúng như chính thương yêu bản thân mình người đó chính là Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Muốn thế giới yên bình Cha ạ, chỉ có Quả tim Chuyển Luân Vương xuất hiện thời nhân loại mới được giải cứu thoát khổ.
Kinh Dương Vương nói: Chuyển Luân Vương chỉ là truyền thuyết không có thật đâu con. Không có cảnh bất chiến tự nhiên thành. Lập lên đất nước Tổ Quốc mà không cần tranh giành Quyền lực, không cần đụng đến gươm Đao giáo mác, chỉ có nụ cười và lời nói thay cho máu đổ đầu rơi không đánh mà thắng Thái Bình mãi mãi là chuyện chỉ có trong mơ mà thôi.
Nếu quả thật có Chuyển Luân Vương xuất hiện thời bấy giờ, cái thời mà mạnh được yếu thua thắng làm Vua thua trở thành nô lệ thời Quả tim Nhân Loại Chuyển Luân xã hội ấy cũng đành bó tay không bao giờ dập được ngọn lửa tham lam tàn bạo đang bùng cháy dữ dội khắp Vương, Chúa đất nước, lại nữa vì trình độ dân trí hiện nay quá Lạc Hậu, lại bị các Quả tim ác Quỉ độc tài độc trị thống trị rồi, không có cảnh tự do mưu cầu hạnh phúc đâu.
Hiện nay vận mệnh Quốc gia, non sông Tổ Quốc phải hùng mạnh có người chèo lái vững vàng, vì tình thế nhân loại hiện nay đang nỗi cơn tham lam tàn bạo sóng bạo lực dữ dội, mình không đánh họ, thời họ cũng sẽ đánh mình.
Kinh Dương Vương lại nói: Từ thời Hồng Đế tới thời Viêm Đế Thần Nông xuống tới thời Kinh Dương Vương Ta, kéo dài hàng triệu triệu năm với truyền thống lâu đời ấy, tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng không có một dân tộc nào sánh kịp nhưng không có gì là tuyệt đối mãi. Gần trăm năm nay, tình thế có phần chuyển đổi, từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần giáo, giáo Điều và Điều lệ cũng theo đó vượt lên chặt chẽ hơn. Cùng lúc ấy phái Duy vật giáo cũng nổi lên làm chao đão tình thế sự của nhiều Vương Tộc trong đó có nước Xích Quỷ ta.
Duy vật giáo suy tôn khoa học Duy Vật, luận chứng họ ca ngợi nền văn minh lúa nước cũng như nền văn minh hội hoạ giao tiếp thông điệp của ta, đưa nhân loại chuyển sang giai đoạn mới cũng như ca ngợi nền văn minh Tơ Tằm dệt lụa ở bên kia bờ Bắc sông Trường Giang, đem lại thật sự hửu ích cho con người. Còn phái Thần giáo thời chủ thuyết Tôn thờ Thần Linh, vì Thần Linh là chủ của thế giới phàm trần và bùa chú là một minh chứng hửu hiệu. Những ai chống trả lại liền bị Thần Linh giết chết.
Hai giáo phái ấy mỗi ngày một lớn mạnh làm chao đảo tình hình phương Đông. Từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần giáo, trường phái Duy vật bị phong kiến độc tài Thần giáo đánh bại. Nên Đại đa số học giả giáo sĩ phái Duy vật không còn trụ vững nơi phương Đông. Làm thuyết khách đi lần về phương Tây. Khi ấy phương Tây, trường phái phù thuỷ đang thịnh hành, là chủ nhân của giai cấp, chiến hữu nô lệ và tiến tới thời cực thịnh của chiến hửu nô lệ nguyên thỉ. Và nghe đâu trường phái Duy vật được các phù thuỷ trọng dụng và nổi lên ở phương Tây xưng hùng xưng bá. Giai cấp phong kiến độc tài duy vật Địa Chủ ra đời ở Phương Tây mỗi lúc một hùng mạnh và đã lan truyền xuống phương Đông, nhất là ở các Địa phận Trung Đông. Lúc bấy giờ ở Trung Đông từ phong kiến độc tài Thần giáo đột phá đi lên, có nơi đã chuyển sang phong kiến độc tài Vua, Chúa thống trị như các nước hùng mạnh xa gần nước Xích Quỷ Ta. Vì thế giáo điều, điều lệ cũng nâng lên một tầm cao mới.
Phong kiến độc tài Vua, Chúa, khác với Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Phong Kiến độc tài Thần Giáo lấy giáo điều Thần Linh cai trị dân chúng. Có một số nước lạc hậu mê tín dị đoan.
Phong Kiến độc tài Vua, Chúa lấy ý kiến triều Thần làm căn bản đưa ra cách thức trị dân. Có nghĩa Vua Chúa nghe theo Triều Thần, không phải nghe theo giáo điều Thần Linh, như Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Ở khu vực Trung Đông này đang lan toả rất nhanh, hình thành lên nhiều thế lực Phong Kiến độc tài Vua Chúa mở ra nhiều nền văn minh mới, xoá sổ lầm độc tài Thần Giáo, cạnh tranh với Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Và chiến tranh tranh giành thuộc địa ở khu vực Đông Á này thảm khốc vô cùng, chiếm hửu nô lệ thảm khốc vô cùng.
Nghe Cha kể lại sự biến động xã hội, trải qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm có thể còn lâu xa hơn nữa, kiến thức của Cha quả thật hơn người Thái Tử lấy làm khâm phục. Có lẽ từ nơi người Cha thông thái dày kinh nghiệm này mà mình tìm thấy cái mình muốn tìm cũng nên vì nghĩ thế nên.
Thái Tử hỏi: Thưa Cha có phải con người ngày xưa họ thờ Cầm Thú như thờ Rắn, thờ Heo, thờ Trâu, thờ Bò, thờ Cọp, thờ Ngựa, thờ Cá, thờ Cây, thờ Đá có thật không?
Kinh Dương Vương đáp: Cần gì thời xưa mà ngay cả thời bây giờ cũng còn nhiều. Ở thời tiền sử có một số dân tộc lạc hậu, họ thấy loài Cầm Thú có yêu thuật họ suy tôn là Thần, rồi tôn thờ cúng bái nghe theo và làm theo những gì Thần Thú, Thần Cầm truyền dạy. Trở thành cuồng tín dị đoan làm hại cho bản thân, gia đình con cái kéo dài hàng triệu triệu năm. Nhưng lần lần các dân tộc tiến bộ, nhận thức được con người là chủ của muôn loài Cầm Thú, không còn sợ các loài Cầm Thú nữa thậm chí còn giết chết Thần Thú, Thần Cầm, những Thần hung hăng háo sát, không những thế mà còn săn bắn loài cầm loài thú to lớn để lấy thịt lấy da phục vụ cho con người, đời sống con người vì đó tiến lên một mức cao hơn. Nhân Loại tiến bộ, loại bỏ lần tôn thờ Thần Thú, Thần Cầm, chuyển sang giai đoạn thờ Thần Linh con người khám phá ra các Thần Linh con người là do sự tiến bộ tu luyện của con người mà ra, Linh Hồn tiến hoá lên các vị Thần như Thần Thổ Địa, Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa. Có những Linh Hồn tu luyện đạt đến đỉnh cao trở thành Thần Mặt Trời làm con của Trời. Những dân tộc văn minh thờ Thần Mặt Trời như Vương Tộc Long Giao ngoại của con.
Không nói chi đến Vương Tộc Long Giao, mà ngay cả Vương Tộc Kinh Dương Vương ta cũng thờ Thần Mặt Trời. Thần hạnh phúc, Thần quyền năng những vị Thần có công hữu ích cho con người những nước lớn ở Phương Bắc như Đế Minh, Đế Lai, Đế Nghi thờ Thần Mặt Trời. Sự thờ cúng tế lễ của một số nước văn minh tiến bộ, đời sống con người vì thế phát triển. Các Triều Thần của nhiều nước cũng theo đó mà phát triển văn minh hơn. Sự tôn phong sùng kính lạy các Thần Linh con người cũng đi vào trật tự kiến lập lễ nghi, lễ nghĩa, lễ giáo, lễ vật đi vào đời sống xã hội con người. Nhân phẩm con người nhận thức theo đó ngày càng thiết thực phong phú hơn phân biệt trở thành Phong Kiến độc tài Thần Giáo, tiến tới Phong Kiến độc tài Vua Chúa. Đi vào trật tự, Quân, Dân, Cha Con, Chồng Vợ, Họ Tộc, xốm làng, xã hội Tổ Quốc vì thế nhân luân rõ ràng hơn cụ thể hơn. Có thể nói giai đoạn Phong Kiến độc tài Thần giáo đã đến thời cực thinh. Và chuyển sang Phong Kiến độc tài Vương, Vua, Chúa.
Trường phái Duy vật tuy ra đời sau Thần giáo hàng triệu năm, hiện Thân của chủ thuyết chính trị độc tài độc trị, đối lập lại giáo trị độc tài độc trị Thần giáo, nói chung trường phái duy tâm Thần giáo.Trường phái Duy vật biện chứng đều rất lợi hại vì có cái lý đứng vững của nó làm cho con người dễ bị thuyết phục nghe theo làm theo.
Có lần Cha cho mời hai trường phái đến để nghe thuyết giáo. Chủ thuyết Thần giáo phát triển xã hội theo hướng tinh thần, giáo dục con người theo giáo Đạo lời dạy của các Đấng Thần Linh.
Chủ thuyết Duy vật giáo, phát triển xã hội theo đường lối phát triển đường hướng khoa học, đất nước nào làm chủ khoa học nhiều, thời đất nước đó sẽ thống lĩnh thiên hạ.
Có một điều con nên hiểu, phái Duy vật là nhốm phái tôn thờ các nhà phát minh khoa học, Họ không phải là nhà khoa học mà họ chỉ là con chiên sùng kính khoa học mà thôi. Cũng như các phái Thần giáo, họ không phải là các vị Thần mà Họ chỉ là con chiên sùng kính các vị Thần mà thôi. Xét cho cùng hai trường phái này chỉ là hai trường phái Duy Tâm và Duy vật, họ chỉ là cái vỏ của Thần Linh và các nhà khoa học, cái lớp vỏ bọc phô trương vô cùng lợi hại của hai trường phái thi nhau ăn sâu vào xã hội con người. Cha là người cẩn thận vì quá hiểu rõ chúng vì chúng chưa phải là các Thần Linh, cũng như các nhà khoa học. Chỉ là trường phái Đấu Đá nhau cạnh tranh nhau mà thôi. Cha không tiếp nhận hai trường phái duy tâm, cũng như duy vật. Vì xưa nay truyền thống Anh Linh dân tộc ta chỉ tôn thờ Thần Mặt Trời con của Trời lấy Đạo Đức Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, tôn thờ Ông, Bà, Cha, Mẹ, Tổ Tiên làm đầu, bảo vệ non sông Tổ Quốc làm trọng mà Ông Cha Ta hàng nghìn năm xây dựng nên. *********
Hết phần 3 chương 7 mời xem tiếp phần 4 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là bộ kinh, kinh văn thậm thâm sâu xa vị diệu ẩn tàng không biết là bao nhiêu là đạo pháp Chính Nghĩa. Ngay thời đại bây giờ cũng khó mà hiểu cho thấu đáo được. Huống chi là cách đây năm nghìn năm, nếu không được Quốc Tổ truyền dạy giải thích thời khó có ai hiểu nỗi một câu. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh Vua các Bộ Kinh. Bộ kinh không những trị quốc an dân, mà còn trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Bộ Kinh không gì quý hơn nữa. Người nào có trong tay Bộ Kinh nầy, đọc tụng hiểu được kinh văn thời coi như người đó đã tu vô lượng vô biên khiếp. Chỉ vì một nhân duyên lớn sanh xuống chốn nhân gian. Cứu nhân độ thế làm cho nhân loại yên bình, cũng như siêu sanh về thượng giới. Có duyên gặp đặng kinh nầy Tiêu tan tai kiếp sống đời bình an Huống chi đọc tụng truyền kinh Cầu chi đặng nấy ứng linh vô cùng Hay là biên chép ấn in Cõi trời sống mãi trường sanh đời đời Huống chi hiểu nghĩa kinh thời Lo gì chẳng đặng Thánh, Thần, Phật, Tiên.
Ngày gửi: 17/09/2023 19:41 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 24/09/2023 23:18
QUYỂN 2
CHƯƠNG 7
PHẦN 4
TRANH GIÀNH THUỘC ĐỊA.
Kinh Dương Vương nói:
Này con! Trường phái Duy vật bị trường phái Thần giáo đánh bại, mang hận thù đi về phương Tây. Còn nhắc nhở rằng sẽ đánh bại phái Thần giáo không xa khi xã hội Vua, Chúa phát triển.
Các Bộ Lạc Chúa Đất ở phương Tây, đón tiếp trường phái Duy vật biện chứng vào hàng thượng khách, làm tôn sư thay thế cho phù thuỷ. Mở ra đường hướng chính trị thôn tính Độc Bá Thiên Hạ, tiến tới công lệ thay cho giáo Điều phù thuỷ. Điều lệ của Chúa Đất trước đây. Đặc ra kế sách khai thác tài nguyên thiên nhiên như Vàng, Bạc, Đồng Thau, Lộ Thiên v.v… Rèn luyện lên Đao, Búa, Tên, Giáo v.v.. Từ nền phong kiến Chúa Đất chuyển sang giai đoạn sơ khai phong kiến độc tài Vua, Chúa. Các Chúa Đất lạc hậu liền bị thôn tính hoặc bị diệt trừ mở màn chiến tranh mỗi lúc một quy mô. Tranh giành nổi lên, tranh giành thuộc địa, thắng là Vua thua là giặc, thật ra mà nói giặc hay Vua cũng chẳng khác gì nhau. Những kẻ bị bắt làm tù binh với khẩu hiệu thuận ta thì sống, chống ta thì chết. Thây chất thành đống, máu nhuộm đỏ sông, từ chiến tranh, tranh giành thuộc Địa. Có chổ biến thành chiến tranh diệt chủng.
Có thể nói nền phong kiến độc tài Thần giáo ở phương Đông đã đến hồi cực Thịnh, trở thành phong kiến Đế, Vương, Vua, Chúa thịnh hành ra đời. Thôn tính các Bộ Lạc, các Bộ Tộc trở thành cường quốc thế lực lớn lên từng ngày. Thật ra mà nói các dân tộc các Bộ Lạc, các Vương Quốc đều phát nguồn từ Hồng Bàng, Hồng Đế mà ra. Sự xưng Đế, Xưng Vương đã có từ lâu lắm rồi. Nước Xích Quỉ thời Kinh Dương Vương ta theo dòng chảy lịch sử lâu đời từ thời Hồng Đế tới bấy giờ. Thời Đại Kinh Dương Ta cũng đã kéo dài gần hai nghìn năm, cũng đã đến thời cực thịnh khó mà tránh khỏi kiếp nạn.
Với hàng chục Bộ Tộc, Bộ Lạc, Vương Quốc lớn, Vương Quốc nhỏ, bao bọc xung quanh nước Xích Quỷ ta. Đáng ngại nhất là phương Bắc, bên kia bờ sông Trường Giang, các Vương Quốc lớn đã có mưu đồ từ lâu, thôn tính nước ta. Tuy việc chưa xảy ra nhưng cũng cần tính trước chuẩn bị khi cần. Nếu chúng ta tới đâu hay tới đó, một khi chiến tranh xảy ra, thời bị động khó đối phó kịp. Cảnh chết chóc, nhà tan cửa nát, quê hương làng xốm tiêu điều, chiến tranh, tranh giành thuộc địa là chiến tranh mạnh được yếu thua, chiến tranh diệt chủng. Địa ngục, nô lệ, tù đày đến với con người nhanh hơn tên bắn. Xã hội nhân loại đại loạn không luật lệ gì cả, giải quyết với nhau bằng gươm, đao, giáo, mác mà thôi.
Cha đã xem kĩ Phong Thuỷ Địa Mộc nước Xích Quỷ ta. Chỉ có lợi cho mặt chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt cấy lúa. Nói chung là thuận lợi cho mặt làm giàu, đất đai phần nhiều là bằng phẳng, ít hiểm trở, sông ngòi kinh rạch chằn chịt, thông ra biển. Nước ta tuy lớn nhưng nằm ở thế bao vây, thế lực từ các dãy núi cao đánh xuống, Lĩnh Nam yêu quái đánh ra, ngoài biển đánh vào, các thế lực phương Bắc đánh vô, thời nước Xích Quỉ ta dần thu hẹp lại. Nhưng Cha vẩn chưa tìm ra giải pháp ứng phó, về lâu về dài. Theo Cha nghĩ chỉ có một cách duy nhất, muốn giữ được non sông màu mở nầy, thời phải có hai loại vũ khí, không phải là loại vũ khí Đồng Thau tầm thường mà là thứ vũ khí Bảo Bối hiện đại vũ trụ, có thể một nhác Đao nhác Búa tiêu diệt cả Đại Quân xâm lược. thứ Bảo Bối thứ hai là Bảo Bối Binh Pháp Trí Tuệ, điều khiển Thiên Hạ muôn người như một. Tập hợp sức mạnh toàn dân tộc thành một khối thống nhất, nhất hô bá ứng. Mỗi người dân là một Dũng sĩ diệt giặc, nước Xích Quỷ như một bó đủa khổng lồ không ai địch nổi nữa. Ngoại xâm kéo đến chỉ có đi mà không có về. Nước Xích Quỷ ta từ lâu lúc nào cũng phòng thủ chuẩn bị cho tình huống xấu nhất xảy ra.
Kinh Dương Vương nói:
Phái Thần giáo thuộc Dương sẽ có lợi cho dân tộc về mặt tinh thần nhưng có hại cho dân tộc về mặt phát triển vì xu thế mê tín nô lệ Thần Quyền, đời sống vật chất, lệ thuộc Thần Linh nhiều quá. Trước bối cảnh thiên nhiên như nắng hạn, Lụt Bão, ốm đau dịch bịnh, không lo tìm ra phương pháp cứu chữa, chỉ lo cầu cạnh lễ cúng tế Thần Linh mà quên đời sống có làm mới có hưởng. Chiến đấu với bệnh tật, không ngoài tìm ra phương thuốc trị bệnh. Chiến đấu với cái đói cái nghèo, không ngoài tìm toài phát minh khoa học biết vận dụng sức mạnh thiên nhiên làm lợi cho cuộc sống con người. Đẩy lùi lạc hậu con người không ngoài nâng cao trình độ nhận thức. Lệ thuộc nô lệ vào Thần Linh nhiều quá, không tự bảo vệ được mình, thời bảo vệ xã hội sao nổi, nói gì đến non sông Tổ Quốc. Nếu không tìm tài phát minh sáng kiến tiêu diệt đẩy lùi bệnh tật, đói nghèo, lạc hậu là mối lo chung cho toàn xã hội. Nếu không hạn chế lệ thuộc thiên nhiên cũng thời tiết, thời tai hoạ ập đến khó mà lường, những năm xảy ra đầy khắc nghiệt, hạn chế thất thu, dân tình đói khổ. Làm Vương một đất nước mà không giữ vững được đời sống ấm no cho muôn dân. Thời không đánh giặc, giặc cũng đánh ta.
Một khi chiến tranh đã nổ ra. Thời Thần Linh cũng vô phương cứu chữa, không ngăn nổi chiến tranh. Thờ phụng Thần Linh là một điều tốt, hể có cảm thời có ứng. Nhưng Thần Linh không phải là Đấng tối cao Quyền Năng Vô Hạn nên Thần Linh cũng bất lực trước thiên nhiên, trước xung đột chiến tranh. Vì vậy phái Thần giáo cũng không giải quyết được gì lớn lao cho con người cho non sông Tổ Quốc nước Xích Quỷ Ta về sau. Nhất là các thế lực đang trên đà hùng mạnh dồm ngó đến đất nước ta.
Nhưng nước Xích Quỷ ta chỉ biết lao theo quyền lực lạm dụng độc tài độc trị, làm cho ai cũng phải khiếp sợ. Theo xu hướng phái Duy vật, chỉ biết tôn thờ cái lợi trước mắt mà quên đi cái hại về sau. Đẩy tình thế vào cuộc tranh giành quyền lực thảm khốc như các thế lực tranh giành thuộc địa ở phương Tây. Có nơi đi đến cảnh diệt chủng. Theo Quốc Sư Thục Lục nước Xích Quỷ Ta, ngựa chiến nhiều quân lực phải mạnh, lương thực đầy đủ, Vũ khí sắc bén nhất là cung tên đao giáo kiếm. Phát huy giáo dục tinh thần yêu nước thời khó nước nào đánh bại được nước Ta.
Thái Tử nói:
Thưa Cha! Quốc Sư Thục Lục là người biết lo xa các nước hùng mạnh khác chưa dám tấn công xâm lược nước ta. Là vì chúng thấy Quốc Vương nước Xích Quỷ không tửu sắc, không tham tàn bạo ác rất được lòng dân hơn hẳn những các Quốc Vương khác, lại có một vị Quốc Sư lắm tài ba khó có ai hơn được. Nhưng đó chỉ là hiện nay mà thôi còn về lâu về dài khó mà nói trước. Cuộc thế chuyển xây thay đổi bất thường.
Theo như con nghĩ:
Một Quốc gia hùng mạnh ấm no hạnh phúc trên hẳn các Vương Quốc khác, xã hội đó có đủ hai yếu tố, văn minh tinh thần, văn minh vật chất. Văn minh vật chất là yếu tố tiến lên dân giàu nước mạnh, giàu về kinh tế, mạnh về quân lực. Văn minh tinh thần là văn minh Chính Nghĩa, nâng cao trình độ dân trí chấn hưng dân khí. Văn Minh tinh thần là Văn Minh Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp phục vụ công bằng văn minh xã hội, thời đất nước đó mới thật sự hùng mạnh, thật sự dân giàu nước mạnh, thời coi như đánh bại hơn một nữa ý chí xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Ngăn chặng được ngoại xâm mà không cần động đến gươm đao giáo mác.
Muốn có được xã hội như vậy không thể tìm thấy ở trường phái Thần giáo hay ở các vị Thần Linh. Cũng không thể tìm thấy ở trường phái Duy vật tôn thờ khoa học hay ở nhà khoa học mà là ở vị Quốc Vương sáng suốt, thực hiện đường lối đúng đắng thông thoáng rộng mở, lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh sẳn có nơi dân. Làm tiền đồ cho non sông Tổ Quốc, tận dụng Tinh Hoa trường phái Thần giáo cũng như trường phái Duy vật giáo làm lợi cho xã hội cho Tổ Quốc. Như con ong chăm chỉ, chỉ lấy mật không lấy hoa. Chỉ vận dụng tinh hoa Duy Tâm Thần Giáo, Duy Vật Biện Chứng. Mà không cần dùng đến phái Duy Vật, hay phái Duy Tâm. Hai trường phái nầy đều cản trở cho việc phát triển văn minh xã hội.
Nói cho cùng Văn Minh vật chất đưa xã hội đến no cơm ấm áo, binh hùng cường mạnh, xã hội giàu sang, Tổ Quốc giàu mạnh, không sợ đói nghèo.
Văn minh tinh thần là văn minh Văn Hoá Chính Nghĩa là rường cột trật tự xã hội, cốt lõi tạo lên nội lực non sông Tổ Quốc. Tạo lên khí thế tinh thần yêu nước, tạo lên sức mạnh đoàn kết muôn người như một sức mạnh dời non lấp biển. Cũng như con người đứng vững là nhờ cốt lõi bộ xương cứng cỏi vững vàng của con người. Tinh Thần đứng vững là nhờ cốt lõi của văn hoá truyền thống. Nếu biết vận dụng tinh hoa hai trường phái Duy tâm lẫn Duy vật thời đất nước đó là đất nước bất bại, khó đất nước nào đánh bại được. Dù cho đó là cường quốc lớn hơn gấp năm bảy lần.
*********
Hết phần 4 chương 7 mời xem tiếp phần 5 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng Kinh là Văn Kinh tối thượng thừa, chỉ cần nhớ một câu một chữ không quên, lại hiểu rõ ý nghĩa câu kinh ấy thời coi như không còn sa đoạ xuống địa ngục. Vì sao lại có hiệu lực như vậy. Vì kinh văn Long Hoa Mật Tạng Kinh, là Kinh Văn Mật Tạng, Kinh Văn Thượng Thừa của các loại Kinh, không những tối đại linh thiên mà còn thậm thâm vi diệu. Nơi nào có Kinh Long Hoa Mật Tạng. Thời nơi đó có Hồn Thiên Dân Tộc phò trì, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, che chở. Vượt qua tất cả kiếp nạn.
Kinh Dương Vương nói: Tinh hoa của hai trường phái đó là gì. Nếu xử dụng cả hai trường phái đó thời khó mà hoà hợp được. Vì hai trường phái ấy như nước và lửa, như âm và Dương, khó mà dung hoà hai trường phái lại với nhau. Ở phương Đông ta chưa có vị nào đủ sức kết hợp hai trường phái ấy thành một, làm lợi ích cho quốc gia xã hội.
Thái Tử nói: Thưa Cha! Sự sống con người là sự sống Tâm Linh và Thể xác luôn song hành, cuộc sống xã hội con người là cuộc sống tinh thần lẫn vật chất. Thần Linh và các nhà Bác Học, khoa học không thể thiếu trong đời sống xã hội, cũng như con người. Vì thế duy vật cũng như duy tâm đều quý cả nếu biết tận dụng lấy nó.
Ở đây con muốn nói là: Cha có thể vận dụng cái hay Tinh Hoa của hai trường phái. Trường phái Duy Tâm Thần Giáo cái hay ở đây là sự tín ngưỡng Giáo dục, giáo điều chân chính của duy tâm Thần Giáo. Kết dính nhân loại lại với nhau, đồng chung sự tôn thờ, cũng như sự tôn nghiêm trong cuộc sống. Ổn định xã hội về mặt Tinh Thần. Giáo điều của các đấng Thần Linh bao giờ cũng có hiệu quả hơn là Vương Quan truyền dạy.
Cái lợi của Trường Phái Duy Vật là làm cho con người nhận thức về khoa học chuyên sâu về vật chất và sự đấu tranh tồn tại, mình muống sống vững thời đứng lên từ đôi chân tự bảo vệ mình, tin vào chính mình và luôn hướng tới đạt được mục đích những gì mình muốn. Sức mạnh kết hợp tinh hoa giữa Duy Tâm cùng Duy Vật làm lợi cho xã hội. Văn Minh vật chất lẫn Tinh Thần.
Mọi vạn vật sống trên đời, sự sống bao giờ cũng song hành cả Âm lẫn Dương ở cảnh giới Trung Hoà, hoà hợp lẫn nhau đồng tiến hoá. Nếu chỉ Âm không, hay Dương không, khi đã đến thời kỳ quá độ không những khó phát triển, mà tự nó trở lại xung đột lẫn nhau huỷ diệt nhau. Sự ở đời cũng cho ta thấy Âm Dương tượng hiệp vạn vật hoá sanh. Nam Nữ trao trinh sanh con cháu lưu truyền.
Để nhận thức được rõ hơn về tinh hoa của hai trường phái, thời phải lắng nghe hai trường phái thuyết giáo, lọc lừa những tinh hoa những mặt có lợi an dân trị quốc. Cha chính là con ong chăm chỉ, tận tị lắng nghe, khi nào nào hai đoá hoa Duy Tâm lẫn Duy vật không còn mật để hút nữa thời thưởng vàng bạc châu báu cho họ, không xài họ, lấy kiến thức của người, không lấy người. Lấy cái hay của trường phái không xử dụng trường phái. Cũng như con ong chỉ lấy mật không lấy hoa.
Các loài hoa tuy khác nhau về màu sắc, về hình dạng nhưng Tinh của các loài hoa đồng cùng vị ngọt, không xung khắc nhau. Không những dùng mật ong trị bịnh mà còn bỗ dưỡng nữa. Không những trường phái Duy Tâm, Duy vật, còn nhiều trường phái nữa. Chúng đều có tinh hoa của chúng, ta cần nhiều trường phái, không phải dùng họ mà tôm gốp tinh hoa của họ, dung hoà thành một. Mở ra một hướng đi mới. Hướng đi trong lòng người, trong lòng nhân loại, đưa xã hội tiến lên một tầm cao. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa nhân quyền, Dân Chủ. Chủ Nghĩa Công Bằng Bình Đẳng xã hội.
Kinh Dương Vương càng nghe càng sáng mắt ra, hết kinh ngạc nầy đến kinh ngạc khác.
Kinh Dương nói: Xưa nay, Cha chưa từng nghe nói một chủ nghĩa lạ lùng như vậy. Không hiểu chủ nghĩa ấy có thực hiện được không? đưa đến dân giàu nước mạnh không? Có chống đở nổi các thế lực ngoại xâm không?
Thái Tử Nói: Chủ nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa lấy Quyền con người làm nền tản Nhân Quyền. Chủ nghĩa lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đất nước Xích Quỷ Ta không chỉ một dân tộc mà đa dân tộc (đa sắc tộc) có trên mấy mươi Bộ Lạc, mỗi Bộ Lạc điều có phong tục tập tập quán bản sắc riêng. Dân Tộc Đa Nguyên như nước Xích Quỷ ta. Không phù hợp thể chế độc tài độc trị. Mà chỉ phù hợp thể chế Đa Nguyên.
MỘT ĐẤT NƯỚC CHUNG CÙNG ĐA BỘ LẠC, ĐA SẮC TỘC NHƯ THẾ THỜI PHẢI SỐNG DƯỚI NGÔI NHÀ CHUNG HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. ĐƯỢC THIẾT LẬP TRÊN NỀN TẢN CHUNG ĐA NGUYÊN, NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ.
Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ. Tiến tới Chủ Nghĩa Đa Nguyên Thiên Quyên Nhân Chủ. Chủ Nghĩa bao hàm cả cái Chung lẫn cái Riêng là một. Thống nhất cùng chung quyền lợi, giữa cá nhân cũng như tập thể, giữa Tư Hữu và Công Hữu. Xã hội vừa khoa học vật chất vừa truyền thống Tâm Linh, xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh. Tất cả đều sống theo Đạo Pháp Truyền Thống. Sống theo Hiến pháp Nhân quyền Dân Chủ. Sống theo Luật pháp Công Bằng Bình Đẳng. Vương, Quan là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, phải nói là tuyệt đối trung thành, truyền thống Đạo Pháp dân tộc, trung thành Hiến pháp, Luật pháp mà Quốc Vương là vị tối cao Đại Diện cho mọi tần lớp nhân dân thể hiện sự Trung Thành đó.
Nắm vững Cán Cân Công Lý. Thi Hành Đạo Pháp truyền thống dân tộc, thi hành nhân quyền con người, thi hành Luật pháp Công Bằng xã hội. Các cấp Chính Quyền, Vương Quan các cấp cầm cân nẫy mực, làm trọng tài cho cạnh tranh bình đẳng, đưa xã hội lên một tầm cao. Không những giữ vững Độc Lập mà còn làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm, một đất nước toàn dân đều là làm chủ đất nước đó. Thử hỏi nước nào mạnh hơn để mà xâm lược.
Một đất nước mà toàn dân đều có bổn phận đối với xã hội đối với non sông Tổ Quốc, đối với truyền thông anh linh dân tộc. Tuân thủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, thời không nói cũng biết đất nước đó hùng mạnh tới mức độ nào. Một đất nước mà có Tam Bảo Chí Tôn, chính là Nền Quốc Đạo dân tộc. Dân đã có gốc thời dân mạnh vô cùng, Chủ Nghĩa Đại Đồng đa nguyên Nhân Quyền Dân Chủ là Chủ Nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân. Nhà nước lấy Quyền con người làm nền tản lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh Dân Chủ toàn dân, thời khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng, kinh tế, chính trị, quân sự vững như núi như non.
Sự hưng thịnh của nền Phong Kiến Thần Giáo đã tới hồi cực thịnh suy vong, nhất là ở phương Đông chúng ta. Phía bên kia bờ Bắc thượng nguồn sông dương tử trường giang. Có Vương Quốc đã chuyển sang Phong Kiến Chế Độ Vua Chúa, kiến lập lên nhiều giáo điều, quân lực, xã hội, chính trị càng ngày càng thêm cũng cố. Muốn chuyển xây tình thế chúng ta vượt lên trên phong kiến Chế Độ Vương, Vua, Chúa. Tiến tới xã hội mạnh về Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp truyền thống Chính Nghĩa, mạnh về khoa học đời sống, đưa giáo dục Văn Hoá lên hàng Quốc Sách, vượt lên trên Thần Giáo. Xoá bỏ mê tính tiến lên chánh tín khoa học, Đạo Đức đời sống Tâm Linh. Thời không còn lo sợ gì nữa.
Thái Tử Hùng Lan thấy Cha có vẽ lo lắng về tương lai luận thuyết của mình, liền nói thêm rằng: Thưa Cha con đã có cách và tìm ra hướng đi mới. Kinh Dương Vương nghe con nói thế liền phấn khởi tin tưởng những gì tương lai của con mình. Kinh Dương Vương khen con không những có chí lớn, mà còn biết lèo lái con thuyền vận mệnh dân tộc, tài lắm, tài lắm.
Kinh Dương Vương bất ngờ hỏi: Con đã tìm ra Căn Cội, Chủ Nghĩa thứ ba Chủ Nghĩa Đại Đồng Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ rồi sao?
Thái Tử nói: Thưa Cha đúng vậy. Không đánh mà thắng, gồm thâu thiên hạ về một mối, đó là thượng sách. Bất chiến tự nhiên thành. Nhưng làm được điều này rất khó, phải thật sự làm chủ Tâm Linh của mình. Thông đạt chứng ngộ đến tận cùng vũ trụ. Tận cùng nguồn gốc của thế giới vật chất. Tận cùng nguồn gốc nhân loại con người. Tận cùng nguồn gốc Tâm Linh con người.
Tạo ra Chủ Nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa thật sự Công Bằng Bình Đẳng văn minh. Chủ Nghĩa của Nhân Loại, do Nhân Loại, vì Nhân Loại. Chủ Nghĩa của sự đoàn kết, chủ nghĩa của sự hùng mạnh văn minh vật chất, văn minh tinh thần. Chủ Nghĩa của sự Độc Lập vĩnh cửu. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Chủ Nghĩa của sự giàu sang, tự do hạnh phúc.
Dùng vũ lực, bạo lực, gươm đao, giáo mác, cung tên, ngựa hay voi tốt, mưu mô xảo quyệt, biết người biết ta, giành lấy thiên hạ chỉ là hạ sách mà thôi. Xây dựng cơ nghiệp hoặc bảo vệ cơ nghiệp trên đường lối, đường hướng Tà Đạo như vậy. Thời Độc Lập lâu dài không bền vững. Thời gian sẽ vùi lấp tất cả.
Kinh Dương Vương nghe nói đến bốn chữ không đánh mà thắng gồm thâu thiên hạ về một mối, bất chiến tự nhiên thành, thời hỏi: Điều này có thật không?
Thái Tử đáp: Thưa Cha có ạ; Đó là Thiên Đạo vũ trụ Văn Hoá Cội Nguồn. Chỉ có Đạo Trời mới gồm thâu muôn vật, mà chỉ có Văn Hoá Cội Nguồn mới gồm thâu được nhân loại thiên hạ. Văn Hoá Cội Nguồn là đỉnh cao Tinh Hoa của nhiều trường phái Chủ Nghĩa thứ 3. Chính là Chủ Nghĩa Đại Đồng Văn Hoá Cội Nguồn. Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ thật sự Công Bằng văn minh.
Nếu tìm đến tận cùng nguồn Cội vũ trụ, thời tất cả sẽ được chứng minh về Nguồn Cội Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ. Tìm cho ra sự sống đều phát nguồn từ bản thể Đại Đồng. Bản Thể Tối Cao Vũ Trụ. Và cũng tìm thấy sức mạnh vũ trụ. Sức Mạnh Cái Chung Toàn Hoàn Vũ, Vũ Trụ. Chứng minh cho được Đại Linh Hồn vũ trụ. Đại Thần Lực vũ trụ tiến hoá tạo ra thế giới vật chất vũ trụ. Đại Linh Hồn vũ trụ khởi tạo ra Tiểu Linh Hồn con người. Có làm được như vậy mới tìm ra được chủ nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa Tinh Hoa cả Duy Tâm lẫn Duy Vật. Chủ Nghĩa của sự bất chiến tự nhiên thành.
Kinh Vương Dương hỏi: Bằng cách nào con tìm ra Cội Nguồn vũ trụ? Để tìm ra Chủ Nghĩa thứ 3. Nguồn Cội của Chủ Nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng?
Thái Tử đáp: Thưa Cha! Nếu không tìm ra Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Mà chỉ thực hiện Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Thời không thành Chủ Nghĩa Đại Đồng, rơi vào Tư Bản Chủ Nghĩa mà thôi. Chủ Nghĩa chưa rốt ráo Công Bằng Bình Đẳng văn minh.
Để tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn. Trước hết ta phải nắm bắt Linh Hồn của chính mình, thu phục tâm viên, ý mã hàng phục vô lượng thức tánh trong tâm, kể cả thiện tánh, trí tánh, ác tánh, trở về tánh không, tánh không tánh, chính là tự nhiên tánh, làm chủ Tự Nhiên Tánh chân như hư không vũ trụ, như như tự tại thời hàng phục tất cả Ma Tánh, Quỉ Tánh, Phàm Tánh trong tâm linh của mỗi con người. Sự hàng phục này phải có thời gian lâu hay mau là do nổ lực quyết tâm của mình. Như người diễn xiếc hàng phục Thú Cầm, người biểu sao thời Thú Cầm làm theo vậy, khi làm chủ được vô lượng thức tánh Linh Hồn của chính mình, thời coi như chiếc chìa khoá vạn năng mở tung bí mật vũ trụ đã ở trong tay.
Cũng như bọt nước nó đã làm chủ được nó và tự điều khiển nó xâm nhập vào bản thể của nước, tìm hiểu nước vì nước là Cội Nguồn của tất cả bọt nước, và từ nơi bản thể của nước, bọt nước sẽ tìm ra cái Văn Hoá Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Cội Nguồn mình cần. Khi tiểu Linh Hồn con người hoà nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, bước vào kho tàng tri thức vũ trụ và chọn nơi đây những tri thức bổ ích xây dựng lên Chủ Nghĩa tri thức, Chủ Nghĩa văn minh bậc nhất thiên hạ.
Chủ Nghĩa mùa xuân, đồng vị ngọt của các loại hoa. Chủ Nghĩa ở đỉnh cao. Chủ Nghĩa của xã hội đỉnh cao tri thức, trên hẳn Chủ Nghĩa tư hữu và công hữu.
Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa kết hợp lợi ích giữa cái Công và cái Tư. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Thiên Đạo vũ trụ Văn Hoá Cội Nguồn là con đường Thần Thánh rộng lớn, xuyên suốt không gian thời gian, xuyên suốt quá khứ vị lai sẽ trở thành Nền Quốc Đạo sau này. Đệ nhất Gươm Thiên Trấn Quốc.
Kinh Dương Vương mừng rỡ hỏi: Con đã tìm ra Chủ Nghĩa tri thức đỉnh cao nhân loại chưa?
Thưa Cha đúng vậy. Chỉ cần kiểm chứng lại nữa mà thôi. Sự kiểm chứng ấy Thái Tử Hùng Lan phải mất sáu năm gian khổ, mới thật sự tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn. Con đường chủ nghĩa tri thức đỉnh cao xã hội, mở ra giai đoạn lịch sử mới đưa xã hội nhà nước Văn Lang lên một tầm cao kéo dài Độc Lập 2701 nghìn năm. Thời Văn Hoá Cội Nguồn, chủ nghĩa đỉnh cao tri thức đi vào thất truyền. *********
Hết phần 5 chương 7 mời xem tiếp phần 1 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh tối cao có một không hai trên đời.
Theo yêu cầu của Thái Tử. Kinh Dương Vương cho xây dựng tại khu vườn cấm một ngôi nhà khang trang, ba phòng rộng rãi thoáng mát, đầy đủ tiện nghi. Cách cung Đình không xa về hướng Tây Nam khoảng hơn năm dặm. Khu vườn cấm là khu vườn được xây dựng từ lâu, từ thời Kinh Dương Vương đời thứ năm, kiến tạo hơn 10 năm mới xong. Phải nói khu vườn cấm là khu vườn cấp cao, đa dạng thực vật hiếm lạ. Nơi đây được trồng nhiều loại gỗ quí, nhiều loại hoa quí, nhiều loài cây ăn trái quí hiến cho quả thơm ngon bổ dưỡng. Có hơn trăm loài Chim thường bay tới đây nhất là mùa quả chín, trong đó có cả Chim Phụng Hoàng.
Khu vườn rộng chừng hơn 3 dặm tư vuông được kiến trúc tạo lập, sông, suối, ao hồ, non bộ đường đi ngan dọc lắm công phu. Khu vườn cấm là khu vườn đặc biệt không ai được đến, chỉ trừ Quốc vương, vương Hậu, vương phi hoặc Thái Tử, Công Chúa mà thôi. Vì kiến trúc nơi đây Châu báu, ngọc ngà, vàng bạc, châu báu nhiều vô số kể.
Hàng năm được tu bổ sửa sang nên quang cảnh nơi đây ví như Tiên Cảnh Bồng Lai thượng giới, nhất là những độ xuân về. Hương Hoa ngào ngạc. Đức Vương cùng gia đình đến đây du ngoạn thưởng thức vẻ đẹp phong cảnh, nghe chim hót, nghe chim ca, xem hoa nở, nghe thát reo, ăn quả ngọt, dạo chơi cả ngày cũng không thấy cháng. Quả đúng nơi đây vừa thanh tịnh, vắng vẻ, vừa không sợ đói khác rất phù hợp cho con người chân tu đạt đến cảnh giới tối cao vũ trụ. Mở ra Chân Trời mới.
Từ khi Thái Tử đến khu vườn này để tu luyện, hầu tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn, Thái Tử là người văn hay giỏi võ, giỏi kế thừa chân truyền Cha mẹ. Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ. Võ nghệ pháp thuật cao cường đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân trên ngọn cây như đi trên đường lộ. Tuy còn trẻ tuổi nhưng khó có người địch lại. Với sự thừa kế Văn Võ của Cha Mẹ Thái Tử đủ sức bảo vệ lấy mình không sợ bất cứ đối thủ nào, dù cho đó là yêu tinh quỉ dữ.
Tuy Thái Tử đã đến khu vườn cấm, nhưng Thái Tử chưa một lần dạo chơi, suốt ngày ở trong thiền phòng, tập trung tư tưởng tham thiền quán tưởng. Hầu mong nắm bắt được Linh Hồn của chính mình, sự bao hàm ý nghĩ tràng lan, không biết đâu là đầu mối, nắm bắt chỗ nào. Cũng không biết khởi đầu từ đâu. Đã hơn một tháng trôi qua mà chẳng nắm bắt được gì. Càng suy luận càng rơi vào đâu đâu, càng thêm mờ mịt, bế tắc. Thái Tử kiên nhẫn chuyển đổi tư duy quán tưởng những đối tượng cần tìm. Trước hết là Thần giáo.
Thái Tử liền tập trung quán nghiệm các giáo điều của các giáo phái Thần giáo. Không thấy chỗ nào là nắm bắt Linh Hồn, làm chủ Linh Hồn của mình cả, mà chỉ là một giáo lý nô lệ. Nô lệ Thần Linh, nô lệ Thần quyền, nô lệ cho thói hư tật xấu đầy tham vọng của mình. Rơi vào tà kiến, thờ cúng Thần Linh cũng chỉ vì sơ sệt, cầu tài được lợi, cầu quyền cầu lực, cầu vô bịnh, cầu bớt bịnh, nhờ Thần Linh ban phúc cho mình. Theo sự phán xét của Thần Linh tự trói buộc mình vào cảnh mê tín nô lệ. Theo các trường phái Thần giáo Linh Hồn không bao giờ tự chủ, làm chủ được mình, mãi mãi là con chiên nô lệ của các Thần Linh. Mà Thần Linh nào phải Đấng tối cao vũ trụ, quyền năng có hạng, có những điều Thần Linh cũng đành bó tay như chiến tranh xung đột xảy ra Thần Linh không ngăn cản được. Đói nghèo lạc hậu Thần Linh không giải quyết được. Thói hư tật xấu trong người làm hại bản thân, gia đình, xã hội, Thần Linh đành bó tay và còn nhiều thứ Thần Linh bất lực chỉ biết đứng nhìn không làm nổi.
Thái Tử càng nghĩ càng thấy chán, vì các trường phái Thần giáo còn ở đâu xa cái mà Thái Tử cần. Đó là Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng. Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ giải thoát đói nghèo giải thoát nô lệ, tiến tới giải thoát sanh tử. Làm Chủ Linh Hồn làm chủ vận mệnh của chính mình. Chủ Nghĩa của sự Công Bằng văn minh, dân giàu nước mạnh, làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm. Giữ vững nền Độc Lập dân tộc lâu dài.
Thái Tử thấy rõ các trường phái Thần giáo chỉ là những giáo phái tôn thờ các Đấng Thần Linh. Nhờ tu thiền luyện khí có chút ít pháp thuật thần thông, nhưng pháp thuật thần thông không làm cho xã hội Công Bằng Bình Đẳng. Cũng như nân cao trình độ nhận thức con người hiểu biết về nhân cách đạo đức. Lại đặc ra những giáo điều bó buộc con người quá lớn. Xu hướng lệ thuộc vào Thần Linh, ỷ lại vào các Đấng Thần Linh, phó mặt cho nghèo đói, chiến tranh và lạc hậu, phó mặt cho thói hư tật xấu do con người gây ra, làm bẩn dơ xã hội.
Thái Tử nhàm chán Trường Phái Thần Giáo chuyển sang mục tiêu khác, mục tiêu pháp chú Thần quyền. Nghiên cứu tất cả Ma thuật, yêu thuật, pháp chú Thần Quyền. Thái Tử càng thấy mù xa những gì mà mình đang tìm. Càng chuyên sâu về Thần Quyền càng rơi vào Mê Tín không phải Chánh Tín. Cái Tin hướng ngoại không phải cái tin nội tâm. Vì thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa từ nội tậm mà ra, không phải vọng cầu mà có. Huống chi là làm chủ linh hồn hàng phục vô lượng vô biên duy thức trong tâm, tiến tới an định tự nhiên hội khập vào Cội Nguồn Vũ Trụ.
Mục đích tu luyện Yêu thuật Ma thuật phục vụ cho lòng tham vọng của mình, phục vụ cho sự tranh bá, tranh quyền điều khiển âm linh tứ tượng, ngũ hành bát quái. Triệu Quỉ gọi Thần dùng tâm lực, luyện bùa, luyện chú, luyện pháp thuật như đi mây về gió, sái đậu thành binh. Tuy có công năng chữa bệnh trừ tà nhưng chỉ là thứ bệnh tầm thường, còn những chứng bệnh nan y tạo ra thời bất lực vô phương cứu chữa. Nhất là những thứ bệnh tâm như thói hư tật xấu lại càng vô phương cứu chữa hơn. Dù cho có tu luyện Yêu Thuật Ma Thuật tu luyện đỉnh cao. Cũng không có tác dụng cho việc trị quốc an dân xây dựng lên xã hội công bằng văn minh, xã hội đỉnh cao tri thức của Nhân Loại, xã hội dân giàu nước mạnh thiên đàng trần gian, xã hội văn minh Tinh Thần, văn minh vật chất.
Thái Tử nghĩ chuyên sâu về pháp chú Thần Quyền, không những không đưa linh hồn đến đỉnh Chân Như Chánh Đẳng Chánh Giác mà còn làm cho linh hồn rơi vào Tà Kiến, không mong gì làm cho nhân loại yên bình được.
Xã hội văn minh là xã hội lấy Văn Hoá Chính Nghĩa làm đầu. Không phải lấy Ma Thuật. Yêu Thuật. Pháp Thuật làm đầu. Nếu dùng bạo lực cường bạo trị dân thời làm cho xã hội thêm trì trệ. Duy trì cuộc sống mạnh được yếu thua càng lạc hậu chậm phát triển. Đây chính là mối hoạ về sau dẫn đến mất nước bị các thế lực xâm lược thôn tính. Quá nhàm chán Thần Quyền. Thái Tứ loại bỏ các trường phái Thần Giáo tôn thờ Thần Linh, lẫn các trường phái pháp thuật, Ma Thuật, Yêu Thuật thần quyền, chuyển sang nghiên cứu tìm trong các trường phái Duy vật. Duy vật Thần Quyền. Duy vật luận chứng.
Duy vật Thần Quyền là trường phái Phù Thuỷ hưng thịnh ở phương Tây. Duy vật giáo song song với Duy Tâm Thần giáo ở phương Đông, rất dễ lạc vào tà ma ngoại Đạo.
Duy vật Thần giáo chuyên sâu vào lảnh vực vật chất, lảnh vực Cầm Thú như Đá Thiên, Ngọc Thiên, Chồn Thiên, Cáo Thiên, Rắn Thiên, Hổ Thiên, Lửa Thiên v.v…
Duy vật luận chứng là tôn phong các nhà khoa học, các nhà luận chứng vật chất đề cao vật chất. Đề cao phát minh khoa học. Nếu khám phá nắm bắt được quy luật vật chất. Kết hợp chúng sẽ trở thành Đấng tối cao vũ trụ, Phái Biện Chứng Duy Vật cho rằng làm bá chủ Vật Chất cũng có nghĩa là làm chủ thiên hạ. Thái Tử phải mất nhiều tháng quán tưởng lần mò tìm kiếm vật chất, theo chủ thuyết trường phái Duy vật biện chứng.
Thái Tử tự sắp xếp phân chia thế giới vật chất ra làm 5 phần. 1: Thể Lực 2: Thể Hơi 3: Thể Lỏng 4: Thể Đặc 5: Thể Lửa
Để hiểu rõ hơn 5 thể nói trên của thế giới vật chất vũ trụ và tìm hiểu chúng.
Thái Tử bắt đầu quáng tưởng Thể Đặc, nói chung Thể Đặc là Đất Đá bụi bặm. Thể lỏng là nước. Thể hơi là khí. Thể lực là điện lực. Thể lửa là do ma sát bốn thể tạo ra. Thể Lửa hâm nóng làm cho bốn thể kết tinh. Tạo ra rong rêu Thảo Mộc. Tinh của rong rêu Thảo Mộc, hình thành lên sự sống từ đơn bào, tiến hoá lên đa bào, hình thành lên thế giới sơ căn động vật.
Thái Tử nghĩ Hình thành lên một sự sống. Ngoài linh căn linh thức cọng với tứ đại giả hợp Tinh Hoa của Đất, Nước, Khí, Lửa thành một sự sống. Như vậy một sự sống có hai phần Linh Căn và xác Thể (hay nói cho dễ hiểu một sự sống có cả linh hồn và thể xác). Thái Tử nghĩ nếu tách riêng từng thể ra thành một thể Độc Lập không có một sự tác động nào nữa, thời các Thể ấy chỉ là thể chết bất động mà thôi. Như vậy các Thể, Khí, Nước, Đất, Lửa không phải là ông chủ của sự sống, chỉ là thể thụ động của thể khác tác động vào làm cho nó động theo. Thể tác động vào chính là Linh Căn Linh Thức Linh Hồn. Chính vì sự tác động của Linh Căn linh thức chuyển động tam thể Khí, Đất, Nước, tạo ra hơi ấm truyền miên duy trì sự sống. Nếu không có Linh Căn Linh thức tác động duy trì tứ đại thời nó tự tan rã.
Thái Tử lại nghĩ: Thể Lỏng, Thể Hơi, Thể Đặc nói chung là các thể. Cũng như thể xác con người. Thể Đặc là xương thịt gân cốt. Thể Lỏng là máu huyết. Thể hơi là khí thở con người. Linh Căn Linh Hồn con người tác động vào ba thể nầy tạo ra hơi ấm giọi là tứ đại. Đất, Nước, Gió, Lửa. Xét cho cùng tứ đại giai không. Đủ nhân duyên thời nhốm hợp, hết nhân duyên thời tan rã. Vì thế sự sanh tử của con người cũng không có chi là lạ. Tất cả chỉ là giả tạm sanh diệt, diệt sanh. Dù cho đó là Địa Cầu, hay càn khôn vũ trụ cũng thế mà thôi.
Thái Tử thông suốt Thể Hơi không chủ sự sống, Thể Lỏng không chủ sự sống. Thể Đặc không chủ sự sống. Thể Lửa không chủ sự sống. hợp tan, tan hợp theo nhân duyên tứ đại giai không. Tứ đại không phải chủ của sự sống. Mà chủ của sự sống là ai? Thái Tử lại tìm hiểu thêm một lần nữa. Các thể tách riêng thành thể Độc Lập, không có sự tác động nào nữa, thời các Thể cũng chỉ là thể chết bất động mà thôi.
Sanh là Linh Căn Linh Hồn nhốm hợp duy trì tứ đại nôi lớn thân thể. Tử là tứ đại tan rã Linh Căn Linh Hồn bỏ thể xác mà đi. Thể xác phàm tục chỉ là thể thụ động khi bị tác động không phải là chủ động của sự sống. Mà chủ của sự sống chính là Linh Căn Linh Hồn. Sự sống bất diệt không bao giờ chết. Theo nghiệp ác nghiệp thiện luân hồi mà thôi.
Vậy chủ sự sống là ai, tứ đại hay Linh Hồn. Nếu nói Linh Hồn là chủ của sự sống. Nhưng Linh Hồn là Vô Vi làm sao tác động vào tứ đại được? Thái Tử nghĩ Linh Hồn phải tác động qua Thể Lực. Thể Lực là trung gian nối liền sự sống Linh Hồn cùng thể xác. Nói chung là tất cả tần lớp Thể Lực. Thể Lực con người. Thể Lực tứ đại. Tất cả đồng nhất của một thể lực Vũ Trụ. Thể lực tứ đại, thể lực con người, thể lực vũ trụ khi bị tác động thời chuyển hoá thành điện năng. Tác động vào tinh hoa Thể Khí đã cấu tạo thành hệ Thần Kinh. Năng Lượng Điện Năng là tinh hoa tinh thể tối cao của khí chất không mùi, không vị, không sắc, không hình, không tướng, nó xuyên qua tất cả không để lại dấu vết. Nó tác động vào hệ Thần Kinh làm cho Tứ Đại chuyển động theo sự sống của Linh Căn Linh Hồn. Thái Tử nghĩ ai làm chủ được Linh Căn Linh Hồn thời người đó sẽ là Đấng tối cao, Quyền năng vô hạn. Nhưng nắm bắt được Thể Lực hiểu rõ thể lực sanh ra từ đâu là cả một vấn đề. Linh Hồn và Thể Lực một hay là hai. Đỉnh tối cao của Duy Tâm cùng Duy vật đều nằm tại đây.
Thái Tử nghĩ, từ Thể Đặc lên Thể Hơi, từ Thể Hơi xuống Thể Đặc. Tuy chúng không là chủ thể, chủ động sự sống nhưng chúng chuyển thể từ dạng này sang dạng khác, theo quy luật tự nhiên. Quy luật Sanh, Trụ, Dị, Diệt, hể có sanh thời có tử. Chuyển đổi theo quy luật tuần hoàn.
Thể Hơi chuyển thành Thể Lỏng, Thể Lỏng chuyển thành Thể Đặc, sự chuyển đổi ấy phải trải qua hàng triệu triệu năm, trí huệ phàm tục khó mà nhận thấy được. Thái Tử rà đi kiếm lại, thế giới vật chất bắt đầu từ Thần Lực cho đến Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc và chúng ma sát tạo thành thể lửa Tứ Đại vũ trụ. Đất, Nước, Gió, Lửa.
Tuy Thái Tử tìm ra Nguồn Cội của Tứ Đại là Thể Lực. Thế mà vẩn chưa tìm ra cách nắm bắt Linh Hồn làm chủ Linh Hồn. Dù cho thông suốt hết thảy thế giới vật chất Vũ Trụ, cũng không thể tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn. Nguồn Cội của tất cả vạn vật tam thiên đại thiên thế giới cũng như con người. Chủ Nghĩa Đại Đồng Nguồn Cội vũ trụ Thái Tử thấy còn rất xa chưa thể với tới được. Khi nào hội nhập Cội Nguồn. Hội nhập vào kho tàn tri kiến vũ trụ, rồi từ ấy rút ra những Tinh Hoa mở đường cho nhân loại đi đến chân trời hạnh phúc, đi đến xã hội Công Bằng Bình Đẳng văn minh, xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Vì nổ lực tham thiền quán tưởng dài ngày nên Thái Tử Mệt lăng đùng ra và đi vào giấc ngủ ngon. *********
Hết phần 1 chương 8 mời xem tiếp phần 2 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Nếu không phải đại căn đã từng làm Vua làm Chúa làm Phật, làm Thánh, làm Tiên trong vô lượng kiếp thời không thể nào thấu hiểu nỗi Kinh Văn trong Long Hoa Mật Tạng.
Nhìn những món ăn toàn là cao lương mỹ vị. Thái Tử nghĩ những thứ này chỉ làm cho cơ thể béo phì, ăn sung mặc đẹp chỉ để phuc vụ cho đời sống thể xác, còn việc tìm cầu nắm bắt Linh Hồn thời khác nào mò kim đáy biển. Linh Hồn do đâu mà có? ai sanh ra, Linh Căn Linh Hồn. Tất cả đều còn nằm trong huyền bí phức tạp vô cùng. Theo Thái Tử nghĩ, Linh Hồn là mấu chốt, để tìm ra Cội Nguồn vũ trụ, chìa khoá vạn năng để mở cánh của Cội Nguồn vũ trụ. Cánh của Cội Nguồn vũ trụ không mở được, thời Văn Hoá Cội Nguồn sẽ không bao giờ xuất hiện ở chốn nhân gian.
Nhân loại sẽ chìm trong u minh, đưa xã hội nhân loại đến chiến tranh diệt chủng, không còn cứu vãn được. Với bao nỗi suy nghĩ làm Thái Tử quên luôn cả ăn lẫn uống. Thái Tử càng ngày càng gầy đi thấy rõ, thời gian cứ thế trôi qua hơn sáu mươi ngày. Để bớt đi sự căn thẳng Thái Tử liền tản bộ dạo chơi khu vườn cấm, có lẽ đây là lần đầu tiên từ khi Thái Tử đến đây để tu luyện. Nơi đây thật vắng vẻ không một bóng người nhưng thay vào đó là sự vui đùa của những chú Chim chúng ca hát líu lo thật tự nhiên, trong sáng vô tư. Hình như chúng không mang lấy ưu phiền, không cần tính toán những gì xa xôi, nghe tiếng Chim hót như truyền cảm một tâm hồn vô tư. Thái Tử nghe tiếng Chim hót, liền tan bao nổi ưu phiền, tâm hồn sảng khoái thành một con người khác hẳn con người của sự tự do vô tư thanh nhàn thoát tục. Đi một khoảng đường, Thái Tử đã lạc vào thế giới non bộ, trùng điệp núi non, Chim kêu Vượn hú, suối lượn uốn quanh, muôn hoa rực thắm, lấn đá chen cây, Lan, Huệ thi nhau nhìn suối, Đào, Mai ngoảnh mặt nhìn mây, Tùng Bách thi nhau đua tàng khoe dáng, mặt Hồ lóng lánh. Sen đùa giỡn lá xoè ra mởn mởn xanh. Cá lượng từng đàn. Bướm nghe nhạc rừng, suối reo không ngừng, gió tìm vào Động. Nước luồng qua khe. Cảnh Quang tuyệt đẹp. Xuân vầy thêm xinh. Tâm Hồn thanh thoảng biết bao nhiêu Nhìn nước nhìn non ánh nắng chiều Lung linh cành biếc xuân nẩy lộc Hoa nhìn mây nước Chim nhẹ kêu Cá lội tung tăng nghe nhạc suối Tùng, Trúc, Đào Mai sắc dáng thêu Bồng Lai Tiên cảnh nơi trần thế Thanh thảng tự nhiên rõ mọi điều.
Nhìn cảnh quang đẹp lạ lùng không mất vẻ tự nhiên chẳng khác nào bồng lai Thiên giới, tuy do con người kiến tạo lập lên. Nhưng ẩn tàng không biết bao nhiêu là huyền cơ đạo pháp. Thái Tử xuất thần nghĩ con người là Tạo Hoá Con, sau Tạo Hoá Cha. Thái Tử lại nghĩ con người là Tạo Hoá Con, con của Tạo Hoá Cha. Tạo Hoá Cha Tạo lập lên vũ trụ. Tạo Hoá Con, tạo lập lên Thiên Đàng Cực Lạc. Tạo Hoá Cha lập lên con người. Tạo Hoá Con tạo lập lên xã hội con người. Và làm chủ những gì Tạo Hoá Cha đã lập lên. Sự thừa kế làm chủ giang sang vũ trụ ấy, con người phải trở về với Cội với Nguồn đến với đấng Cha Ông.
Muốn cứu vớt thiên hạ tìm ra con đường hạnh phúc. Nhứt là hạnh phúc xã hội văn minh, xã hội Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng tự do. Xã hội của sự tự giác ý thức nhận thức cao. Muốn có xã hội như thế, không phải tự nhiên mà có được, phải có con đường Chân Chính đi lên. Con đường dưới hợp lòng Dân trên thuận Lòng Trời. Chỉ có con đường như thế mới tiến tới xã hội văn minh.
Thái Tử nhìn những hòn non bộ thật mà giả, giả mà thật, cảnh quang nơi đây không phải tự nhiên mà có, mà do con người sáng tạo lập nên, giả mà thật, thật mà giả, cũng như hình và bóng, bóng của hình. Nhìn sự liên kết hòn non bộ tạo thành một dãy núi nhưng lại là những dãy núi giả. Nhìn những dãy núi giả thật, thật giả ở đây so sánh các dãy núi ở các Châu lục. Thời là những dãy núi thu nhỏ. Tuy nhỏ mà lớn, cái nhỏ không khác gì cái lớn. Thái Tử ngộ ra một điều, tiểu Linh Hồn nào khác chi Đại Linh Hồn. Bọt Nước đồng bản thể của Nước. Tuy một mà hai tuy hai mà một.
Thái Tử xuất Thần quan sát suy xét so sánh tìm ra chân tướng của sự thật và bổng nhiên hội ngộ. Thái Tử nghĩ các dãy núi của các Châu lục hùng vĩ xinh đẹp là do bàn tay Tạo Hoá Cha Trời chuyển xây Tứ Đại. Đất Nước Gió Lửa theo định luật tự nhiên tạo lập ra, giả lập lên. Cũng như các hòn non bộ giả sơn ở đây vừa xinh đẹp vừa hùng vĩ là do Tạo Hoá Con bàn tay con người, tôm gốp đất đá để tạo lập ra, giã lập tạo lên theo ý tưởng con người. Con người duy trì thời nó còn, con người không duy trì nữa theo thời gian sẽ biến mất. Sự giả lập không thật. Theo nhân duyên hiện ra hết nhân duyên tan biến trở về hư không. Trở về Thể tướng không tướng Cội Nguồn của thế giới vật chất.
Thái Tử lại nghỉ, chân tướng của Tứ Đại vốn không tướng, chỉ là nhốm hợp theo nhân duyên hiện ra. Với lớp bụi vi trần theo bàn tay Tạo Hoá Cha Trời nhốm lại, tạo lập lên Đất Đá vũ trụ, chuyển xây Tứ Đại, Đất Nước Gió Lửa giả lập tạo lên núi non sông hồ biển cả, giả lập tạo lên cảnh giới Địa Cầu vũ trụ. Và con người cũng vậy, do Địa Mẫu Âu Cơ tốm thâu Tinh Hoa khí ngũ Địa, Đất Nước Gió Lửa tạo lập lên thể xác con người và thật tướng của con người cũng chỉ là Tinh Hoa vi trần cát bụi Tứ Đại, đủ duyên thì nhốm, hợp, hết duyên thì tan rã.
Lại thêm một tia sáng loé lên trong đầu Thái Tử.Trường Phái Duy Tâm. Trường Phái Duy Vật không thể nào vượt qua Thiên Thể chân tướng hư không. Chân Tướng hư không, không thể dùng mắt thường mà thấy được. Chỉ khi nào người ấy có được thanh tịnh Huệ Nhãn, thanh tịnh Pháp Nhãn. Phái Biện Chứng Duy Vật chỉ dựa vào Nhục Nhãn con mắt thường. Nên cho rằng trong hư không chỉ là sự trống không, Vạn vật sanh ra ở đời chỉ là một sự tự nhiên mà thôi. Và sự ngẫu nhiên của sự trùng lặp. Phái duy Vật biện chứng chỉ lẫn quẩn trong vòng Duy Thức cái thấy biết phân biệt chấp tướng, chấp pháp luân chuyển trong cảnh giới Vô Thường khó mà thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Khó mà thấy rõ Cội Nguồn của thế giới vật chất.
Phái Duy Vật không bao giờ nhận ra Cội Nguồn của thế giới Vật chất vốn không tướng, mọi hình tướng đều là giả lập, giả tướng mà thôi, cho đến thể xác cũng thế. Có lẽ thế giới Linh Hồn hay chính Linh Hồn ta cũng vậy. Thật Tướng, Thật Tánh của Linh Hồn cũng chỉ là không tướng, không tánh, bản thể linh minh Diệu giác trong sạch vô vi, không ý, không thức. Nguồn Cội bản thể Linh Hồn không tánh, không tướng, không ý, không thức, thời làm gì có thói hư tật xấu, tham lam tật đố kêu căng ngạo mạn làm hại nước hại dân, những thứ tánh rác rưởi ấy làm bẩn dơ xã hội, hôi hám và đầy dẫy tội ác. Thật Tánh của Linh Hồn là Không Tánh làm gì có những thứ tánh ấy. Nếu Có cũng do Linh Hồn mê muội khởi tưởng tạo ra gieo mầm tội ác, gieo nghiệp hung dữ tạo ra những thứ tánh nhơ bẩn đó mà thôi. Những thứ tánh không tật có trong căn Cội của mỗi Linh Hồn.
Những người mê muội họ mãi duy trì những tánh xấu xa đó. Còn những người giác ngộ họ loại bỏ ngay những tánh hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của họ. Để khỏi bị những tánh hư tật xấu ấy làm hại bản thân, làm hại gia đình, làm hại non sông Tổ Quốc cuối cùng đoạ sa xuống Địa Ngục khốn khổ mãi.
Cuối cùng Thái Tử cũng đã nhận ra chân tướng, chân tánh, bộ mặt thật của Linh Hồn (hội ngộ bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh) Chân Tánh Linh Căn Linh Hồn. Lòng tràng đầy niềm tin tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng tối cao vũ trụ không còn xa nữa.
Thái Tử nhìn thác nước, những bọt nước do nước sanh ra, sau đó liền tan biến trở về là nước, như đánh thức Thái Tử một điều quan trọng. Tiểu Linh Hồn con người muốn hội nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, thời cũng phải giống như bọt nước kia. Tự nó tan về là nước. Linh Căn Linh Thức Linh Hồn cũng thế. Tự nó tan biến hệ ý thức trí thức phân biệt lặng yên Vô Thức Tự Nhiên. Linh Hồn không khởi ý niệm vắng lặng như như đại định thẳng đó vô tâm, vô niệm, vô ý, vô trí là phải, một niệm khởi lên là trái không thành. Tự nhiên không một niệm nào cả là đúng. Thời không bao lâu sẽ Đại Ngộ chân tâm chân tánh của mình. Tánh không là chân tánh. Tướng không là chân tướng. Ý không là chân ý. Trí không là chân trí. Tự nhiên như hư không, không phải tu chứng đắc gì cả, giống như viên Ngọc dính bẩn rửa sạch bẩn viên Ngọc sáng ra. Viên Ngọc vẩn là viên Ngọc trước sau vẫn như vậy trôi lăn vô lượng kiếp không bớt, khi thành đấng tôi cao cũng chẳng có gì thêm, trước sao sau vậy. Linh Thức bọt nước tự nó trở về bản thể Linh Giác là nước, không còn là Linh Thức bọt nước nữa. Cũng như thức tánh trở về chân tánh, và luôn an trụ nơi Chân Tánh tức là Vô Trụ (vô sở trụ sanh kỳ tâm).
Cũng như không phải dính bụi mà viên Ngọc thêm, không phải rửa bụi mà viên Ngọc bớt, viên Ngọc trước sau vẫn là viên Ngọc, Vốn tự nó không nhiểm bẩn, những thứ tánh nhơ bẩn chỉ là giả tánh, không phải chân tánh.
Thế là Thái Tử đã tìm thấy Bổn Lai Diện Mục của chính mình, đạt đến cảnh giới Minh Tâm Kiến Tánh.
Muốn hàng phục Tâm Viên Ý Mã ví như người mất Ngựa đi tìm ngựa và đã tìm thấy con ngựa của mình ở phía trước và đang tìm cách nắm bắt chúng để con ngựa Ý Mã Tâm Viên theo mình trở về Cội Nguồn vũ trụ. Muốn làm được như thế phải hiểu ngựa mới hàng phục được ngựa, phải hiểu khỉ mới hàng phục được khỉ. Và sợi dây trói ngựa chính là Giới và sợi giây trói khỉ chính là Định, thay đổi món ăn của chúng là Tự Nhiên, tự nhiên là món ăn thường xuyên, để cho Ý Ngựa Tâm Khỉ thuần thục, vì thế phải nổ lực siêng năng là điều không thể thiếu. Thái Tử nghe trong tâm hồn lân lân nhẹ nhổm.
Để hàng phục Tâm Viên Y Mã, Thái Tử dùng sợi dây Giới, Định tối cao, ngăn chặn thấy nghe hay biết phân biệt ngoại cảnh lục trần. Lục trần tức là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Thấy nghe hay biết tự nhiên khác với thấy nghe hay biết phân biệt.
Thấy nghe hay biết tự nhiên là thấy nghe hay biết không khởi tâm khởi ý phân biệt. Thấy nghe hay biết, khởi tưởng phân biệt là thấy nghe hay biết bọt nước tạo ra vô lượng ý thức. Thấy - Nghe - Hay - Biết không khởi tưởng phân biệt. Thời chính Linh Thức Tánh Thức chuyển hoá thành vô lượng thể tánh Như Lai. Người muốn đạt đến cảnh giới tối tuyệt đối không được khởi tưởng nhận thức phân biệt.
Thái tử loại bỏ cái, thấy nghe hay biết khởi tưởng phân biệt nhận thức của bọt nước, tức là ý tưởng nhận thức huân tập chủng nghiệp của tâm viên ý mã, xưa nay rong ruổi chạy theo lục trần, bám lấy lục trần trôi lăng mãi trong vòng sanh tử. Thái Tử buộc Tâm Viên Ý Mã phải đi theo Thiên ý tự nhiên của ông chủ. Thấy nghe hay biết tự nhiên không cho khởi tưởng, nhận thức, phân biệt Lục trần, tức là nhận thức khởi tưởng phân biệt, sắc, thịnh, Hương, vị, xúc, pháp. Nhờ cắt đứt nhân duyên Lục trần, Lục căn lần lần thanh tịnh, Lục thức lần lần trong sáng, không còn mê muội u tối nữa, theo ông Chủ trở lại Cội Nguồn. *********
Hết phần 2 chương 8 mời xem tiếp phần 3 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là những bí Mật Tạo Hoá không dễ gì nhận biết được. Chỉ cần nhận biết một câu một chữ trong kinh thời coi như đã vượt qua ức kiếp tu luyện. Thành tựu công đức vô biên. Kinh văn vô thượng thậm thâm Chỉ cần đọc tụng cũng lên thiên đàng Huống chi đọc tụng nhiều lần Coi như thành Phật, Thánh, Thần khó chi.
CHƯƠNG 8
PHẦN 3
MƯỜI TÁM GIỚI
Lục Trần: Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc - Pháp. Lục Căn: Nhãn - Nhĩ - Tỷ - Thiệt - Thân - Ý. Lục Thức: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức.
Như vậy Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức khởi tưởng phân biệt bám theo Lục Trần. Bằng phương pháp Đại Giới. Cắt đức nhân duyên không cho Lục Thức phân biệt Lục Trần, Đại Định. Chỉ an trụ vào Thấy - Nghe - Hay - Biết tự nhiên.
Nói một cách dễ hiểu hơn, là Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức bọt nước Tiểu Linh Hồn của mình. Khởi tưởng phân biệt Lục Trần, bám theo Lục Trần huân tập ái dục. Lục Thức bị Đại giới tự nhiên trói chặt, Đại Định. Lục Thức đã an định. Thời lục căn thanh tịnh lần lần trong sạch, Lục căn càng thanh tịnh trong sạch bao nhiêu thời cảnh giới Thần Thông tự hiện ra bấy nhiêu. Cũng như mặt kính đã lau sạch bụi thời cảnh giới bí mật vũ trụ tự hiện ra dần. Cũng như mặt Hồ yên lặng thời trăng sao trời đất điều hiện rõ.
Từ Lục Thức phàm phu mê muội chuyển thành Lục Huệ của Bậc Đại Giác Ngộ. Trong Lục Huệ. Tự nhiên thanh tịnh pháp Huệ là cao nhất. Chính là cái thấy, nghe, hay, biết Toàn Năng Toàn Giác Cái thấy, nghe, hay, biết của bọt nước trở thành cái thấy, nghe, hay, biết của nước. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không chấp trước, cái Thấy - Nghe - Hay - Biết của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Sự chấp trước cái tôi cái ta không còn nữa. Trở thành Đáng Đại Từ Bị, Đại Trí, Đại Dũng. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên vũ trụ là mình, mình là vũ trụ, không phân biệt gì cả. *********
Hết phần 3 chương 8 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 8
Nhìn núi non trùng điệp, Chim kêu vượn hú, suối lượng uốn quanh. Hoa chen lá, đá ẩn tàng chen cây Cánh hoa lấp lánh đua nhau thi màu thi sắc. Tùng Bách thi nhau xanh mướt đua tàng, khoe tán. Đào Mai đua dáng đua xuân. Gió reo cửa Động, nước luồn qua khe, lá cành rung nhẹ, bướm nghe nhạc rừng, nước non cảnh đẹp, cảnh vật tưng bừng.
Nhưng Thái Tử có nghe như không nghe, có thấy như không thấy, có hay như không hay, có biết như không biết, Thái Tử giờ đây thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không khởi một niệm phân biệt.
Thái Tử xuất thần liên tưởng quan sát càng thêm Đại Ngộ. Chân giả, giả chân, trong chân có giả, trong giả có chân. Trong bọt nước có bản thể của nước, trong Tiểu Linh Hồn có bản thể của Đại Linh Hồn.
Bản thể Linh giác trong sạch vô vi, vô vi mà thường vi, không tánh, không tướng, không ý không thức. Nhưng Khi bản thể Linh giác tiếp xúc với cảnh giới Lục Trần, biến sanh sáu thức, sáu thức này sanh ra dựa trên ngũ uẩn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, rồi huân tập nghiệp lực thông qua thập nhị nhân duyên. Hình thành hành trình sanh tử. Có thể nói tốm tắc khái niệm như sau: Chỉ cần phá vỡ cắt đứt nhân duyên của chúng, thời chân tánh thanh tịnh ngay.
Chân Tánh mê không làm chủ được mình luôn chạy theo Tánh thấy, nghe, hay, biết của mình khởi ý phân biệt Lục Trần, khởi ra vô lượng nghiệp thức. Nhất là những nghiệp thức ác làm cho chân tâm chân tánh không thanh tịnh được, lao theo trần cảnh huân tập nghiệp quả luân hồi sanh tử. Chân Tánh mê không làm chủ được mình gọi đó là Vô Minh (1) không làm chủ thấy, nghe, hay, biết của mình khởi tâm phân biệt vô minh sanh Hành (2) vì mê bám lấy Lục Trần khởi ý gieo nghiệp sanh ra Lục Thức (3). Như vậy Chân Tánh là bản thể nước. Vì không làm chủ được bản thể khởi ý phân biệt sanh ra thức bọt nước ý thức, bọt nước ý thức dựa trên ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng huân tập quả nghiệp hành, thức thông qua thập nhị nhân duyên, luân hồi sanh tử.
Sáu thức do vô minh, tánh mê tạo ra, nên sáu thức u mê không khác nào tánh mê cả. Sáu thức từ ý thức phản tỉnh nhận thức phân biệt cảnh giới sắc chất, vì thế Danh Sắc sanh ra (4) Danh Sắc là danh từ. Danh từ Lục Trần sanh ra liền xâm nhập vào ý thức, nhận thức, Lục Nhập (5). Đã có Lục Nhập thời sự tiếp xúc liên tục xảy ra, Xúc (6) đã tiếp xúc liên tục cảm thụ rồi trở thành thói quen Thụ (7) đã trở thành thói quen trì niếu ưa thích ưu ái. Ái (8) cái gì ưu ái ưa thích, thời bảo thủ giữ chặc không buôn ra Thủ (9). Thủ là quả nghiệp của ý thức, nhận thức, quả nghiệp đã có thời nó tiếp tục khởi sanh, dù cho đó là nghiệp dữ hay nghiệp lành, quả nghiệp đã có, Hữu (10) đã kết quả ý thức, nhận thức đủ nhân duyên, thời liền khởi sanh, Sanh (11) đã có sanh thời theo quy luật tự nhiên, thành, trụ, hoại, không. Sanh, lão, bệnh tử. Tử (12) đó là chuổi nhân duyên tạo lên vòng sanh tử theo định luật tiến hoá tự nhiên không có chi là lạ. Muốn thoát khỏi sanh tử ra khỏi cảnh giới luân hồi thoát ra cảnh giới Mê cảnh giới ác thời cắt đức nhân duyên. Cũng như người tạo vật tạo ra cảnh giới nầy chán chê thời bỏ đi, hoặc tạo ra cảnh giới khác chơi vậy. Chán chê cảnh giới ác thời bỏ đi, tạo ra nhân duyên cảnh giới Thiện để vui chơi.
Thái Tử đã nhận ra sự huyền diệu của bộ máy huyền cơ vũ trụ, nhờ làm chủ được Linh Căn Linh Hồn của chính mình, hàng phục Tâm Viên Ý Mã đi vào cảnh tối cao Đại Định phải nói là không thể luận bàn cho hết được sự diệu dụng của nó và đây chính là chìa khoá vũ trụ mà ai ai cũng có, dùng nó để đạt đến mục đích cuối cùng. Thái Tử đã thật sự làm chủ Linh Hồn của mình, tiến đến mở cánh của Cội Nguồn. Bước vào nhà vũ trụ, làm chủ vũ trụ.
Thái Tử bỏ cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt của thức, bọt nước. Trở về cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên, phản tỉnh ra vô lượng ý giác ngộ, ý thức giác ngộ khởi sanh ra khế hiệp với Chân Tâm Chân Tánh. Liền khởi dụng như Lai Tạng Tánh vũ trụ. Phải nói là bất khả tự nghì không thể luận bàn được nữa. Sự thấy, nghe, hay, biết tự nhiên của Thái Tử, đưa Thái Tử đến lần lần khám phá hết bí mật sự huyền vi cũng như huyền cơ của vũ trụ.
Chỉ trong chốc lác Thái Tử đã đạt đến đỉnh cao của thiền tâm, an trụ vào Chánh Định, Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, Chánh Niệm, Chánh Nghiệp, Chánh Tuệ hay còn gọi là Chánh Giác.
Đây nói về Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền, ẤN Quang Tối Thắng Như Lai, Lạc Long Quân, Đấng tối cao hiện thân của Đức Tổ Tiên, Đấng chủ quản Linh Hồn, Đấng điều hành bộ máy Huyền Cơ vũ trụ, thấy rõ người con Cả Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần, đang dùng con mắt Huệ Nhãn thanh tịnh cùng Đại Nguyện lực phá vở vô minh che khuất Chân Tâm Chân Tánh, làm chủ bản thể Linh giác của mình, thời khen ngợi. Thế mới xứng là con Cả của Cha Trời.
Nói về Thái Tử đã đạt đến Chánh giác dùng con mắt thanh tịnh Huệ Nhãn. Hay còn gọi là thanh tinh Pháp Nhãn. Cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết bản thể linh giác của nước, không phải cái thấy, nghe, hay, biết phân biệt của thức bọt nước, phen lần bí mật vũ trụ tìm ra Cội Nguồn và mỗi lúc Thái Tử càng tiến xa tiến xâu vào bí mật vũ trụ. Từ đây về sau tất cả mọi biến động. Dù chỉ là chiếc lá rơi, cũng làm tăng thêm sự chứng ngộ Nhìn rõ sự thật huyền ẩn của chúng, bộ mặt thật của nhân duyên và vô thường.
Mỗi bước chân của Thái Tử là mỗi bước giác ngộ. Có lẽ cảnh quang nơi đây cũng hiểu Đấng Đại giác ra đời, Đấng Cứu Thế. Nên thi nhau toả hương ngào ngạc. Khu rừng cấm bổng chốc rực rỡ như cảnh Bồng Lai. Trước mặt Thái Tử là chiếc Ngai Rồng bằng vàng và chiếc Ngai Phụng chạm ngọc. Nơi đây Kinh Dương Vương cùng Vương Hậu thường ngồi để ngắm cảnh xem hoa, nghe Chim hót hoà mình vào Đất Trời cảnh giới thiên nhiên.
Thái Tử ngồi lên Ngai vàng nghĩ! Có lẽ Vua Cha xem cảnh quang sắc thắm nơi đây bằng con mắt phân biệt, nhận thức cảnh quang bằng con mất hiểu biết để làm vui. Còn Thái Tử thì khác. Xem cảnh quan bằng con mắt thanh tịnh không phân biệt chi cả. Điều kỳ lạ ở đây Lục Căn, Lục Thức Thái Tử thanh tịnh đến lạ lùng. Không phân biệt. Thế mà nhận ra tất cả hương vị của mỗi loài hoa. Của mỗi âm thanh dù là âm thanh nhỏ nhất của côn trùng Thảo Mộc, xa đến mười dặm.
Điều kỳ lạ này đã đánh thức Thái Tử nhận rõ thêm, Tánh thấy, nghe, hay, biết của nước và tánh thấy, nghe, hay, biết phân biệt của bọt nước, có thể nói sự thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh của Chân Tánh, nước, như ánh sáng Mặt Trời, còn sự thấy, nghe, hay, biết phân biệt của ý thức bọt nước ví như ánh sáng con đôm đốm mà thôi. Ánh sáng trí huệ Mặt Trời đã xuất hiện, ánh sáng Bình Đẳng trong sáng vô vi, hàng triệu hàng nghìn năm mới xuất hiện một lần.
Thái Tử Hùng Lan hầu như đã nhận ra bản thể Linh giác Chân Tánh vốn trong sạch vô vi, mà thường vi, bất tăng bất giảm, không cấu nhiểm, không mùi vị, không danh sắc, không thọ tưởng hành thức, vì bản thể không cấu nhiểm của Chân Tâm trong sạch vô vi, không cấu nhiễm nên phản tỉnh đo lường phân biệt nhận biết tất cả Gọi Đó Là Bản Thể Minh Tâm. Thể Tánh Chân tâm trong sáng Vô Vi Vô Sắc thu nhiếp tất cả. Nên gọi đó là Kiến Tánh. Nhận rõ Bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh của chính mình, thời coi như đã trở thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Thái Tử hiểu rõ mỗi Linh Căn Linh Hồn dù trôi lăng trong sanh tử Lục Trần vẩn trong sạch không cấu nhiểm, giống như Hoa sen gần bùn mà chẳng nhiểm bùn. Nhưng vì chấp trước chạy theo cái biết phân biệt hướng ngoại của chính mình, hướng ngoại chính là chạy theo lục trần lặng hụp trong thế giới vật chất huân tập thành nghiệp lực kết quả nghiệp thức, vì thế mà luân hồi khắp ba đường sáu nẻo.
Ánh sáng trí tuệ Mặt Trời của Thái Tử đã phá tan dần từng lớp vô minh đã từ lâu bao phủ lấy Linh Hồn. Với hành trình hướng tìm về Cội Nguồn bọt nước tan biến trở lại là nước. Linh Thức trở về Linh Giác, tánh thức trở thành Tánh Giác.
Có thể nói Thái Từ cảnh giới mê, trở về cảnh giới giác. Làm chủ Linh Căn Linh Hồn của chính mình. Từ Giả Tánh trở về Chân Tánh.
Thời chiếc chìa khoá vạn năng đã có trong tay. Chỉ còn nổ lực Chánh Định, chánh Tư Duy, chánh niệm tức là Vô Niệm thời sẽ mở tung cánh cửa Cội Nguồn vào nhà vũ trụ. Tìm ra Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng. Cứu nhân loại thế gian đang lặng hụp trong khổ đau.
Đói nghèo, lạc hậu, chiến tranh, hận thù, sanh, lão, bệnh, tử. là Nguồn Cội của sự khổ. Phải nhổ tận gốc Nguồn Cội của chúng.
Nhưng có một điều đáng nói ở đây là Thái Tử như Mặt Trời xuất hiện ở mùa Đông. Thiên Ấn dù ra đời nhưng trình độ dân trí còn quá lạc hậu, lại còn truyền khẩu, không phải truyền bằng Văn Kinh, vì giấy, bút, chữ viết khi ấy chưa ra đời nên không hấp thụ được bao nhiêu lời dạy của Thái Tử sau nầy.
Khi nhân gian còn chìm trong u minh. Những cơn bão lạc hậu. Cơn bão Mê tín dị đoan, lại mê muội quyền năng tri giác tối tăm không tiếp nhận được ánh sáng Mặt Trời. Ví như người mù dù ánh sáng Mặt Trời có rọi trúng đỉnh đầu cũng không nhận thấy được. Tuy người mù không thấy ánh sáng Mặt Trời chiếu đến nhưng không vì thế mà ánh sáng Mặt Trời không cứu họ mà còn đem lại cho họ sự sống. Đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết quả nhận thức về Chính Nghĩa sống hoà bình, tự do hạnh phúc. Văn Hoá Cội Nguồn ra đời cách đây năm nghìn năm mở màn cho Thiên Ấn ra đời nên không có Kinh luân truyền lại. Chỉ lấy tâm ấn tâm truyền khẩu cho nhau, rồi đi vào thất truyền. Thiên Ấn thất truyền. Thiên Bút xuất hiện sau năm nghìn năm. Sau Công Nguyên 2 nghìn năm kể từ khi Chúa Giê Xu ra đời Thiên Ấn, Thiên Bút xuất hiện. *********
Hết phần 4 chương 8 mời xem tiếp phần 5 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh Thượng Thừa tối cao vũ trụ. Không có sự làm lành cầu phước báo nào hơn. Là In Ấn, biên chép truyền bá bộ kinh nầy. Dù là một câu một chữ cũng tiêu tan vô lượng tội ác cầu chi đặng nấy không sai. Huống chi là giảng dạy cho người khác nghe. Thời phước đức dù cho hưởng trăm nghìn ức kiếp cũng không hết. Chỉ cần nghĩ đến Mật Kinh thôi Cũng đã tiêu tan ức tội rồi Huống chi đọc tụng hay biên chép Vua Trời không khó, Chúa an ngôi.
Vào thiền phòng đã hơn một tháng, lần này khác hơn lần trước Thái Tử chỉ ngồi yên lặng. Mình là vũ trụ. Vũ trụ cũng chính là mình. Thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh, không một niệm khởi dù cho đó là một niệm không. Như như vắng lặng. Đây là một bí pháp Mật Tạng của thiền, định lực phát sanh từ đại định nầy, Mặt Trời Trí Huệ lần lần xuất hiện soi rọi khắp hư không vũ trụ, phát hiện lần những huyền bí mà trí thường, mắt thường không thể nào khám phá ra được.
Nhân loại phàm trần bị vô minh che mất Chân Tánh, phiền não nhiễu hại nghiệp lực xoay chuyển, luôn luôn lặng hụp trong biển khổ. Chiến tranh, nghèo đói, lạc hậu, ốm đau bịnh tật bám lấy không yên, chưa hết cái khổ này chồng lên cái khổ khác. Nên Đức Chí Tôn mới đầu thai xuống thế gian mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn. Thái Tử Hùng Lan chính là Đức Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Đấng Cứu Thế ra đời. Nên ý chí trí lực có một không hai trong nhân thế không ai có thể bì kịp sánh nỗi.
Thái Tử mỗi lúc mỗi khám phá bí mật của bộ máy Tâm Linh, hàng phục Tâm Viên Ý Mã làm cho Linh Hồn, biển lặng, sóng yên Minh Tâm Kiến Tánh những gì bí mật vũ trụ mỗi lúc một rõ ràng. Huệ tâm sáng suốt tột cùng, phen lần Huyền Cơ Tạo Hoá, cũng như về mặt Tinh Thần lẫn Vật Chất vũ trụ. Bổng có cơn gió thổi mạnh làm cơ thể như muốn chao đảo. Hầu như cơn gió đánh thức Thái Tử một điều quan trọng.
Đã là con người không chỉ về mặt Tâm Linh không mà còn có cả thể xác. Muốn cứu nhân loại đưa nhân loại đến văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. Không những mở ra con đường đạo đức mà còn cả con đường khoa học. Vật chất nuôi dưỡng thể xác. Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Thái Tử nghĩ vật chất ư, có vai trò gì trong cuộc hành trình giải thoát. Thái Tử liền chuyển hướng huệ quang khám phá vật chất. Thái Tử nghĩ, thế giới vật chất vũ trụ vô tận vô biên nhưng thật ra chỉ có năm thể mà thôi. 1: Là Thể Lực vũ trụ. 2: Là Thể Hơi Khí vũ trụ. 3: Là Thể Lỏng Nước vũ trụ. 4: Là Thể Đặc Đất vũ trụ. 5: Là Thể Lửa hơi ấm vũ trụ
Và cũng chính Thể Lửa hơi ấm nầy làm cho 4 thể lực, khí, nước, đất kết tinh tạo ra sự sống Động vật, Thực vật, trong đó có thể xác con người.
Thể Hơi Chân Khí là thể trung gian giữa vô hình Linh Căn Linh Thức Thần Lực với hửu hình vật chất. Giữa vô sắc với hửu sắc. Vì thế sự sống của vũ trụ vật chất cũng như sự sống của con người. Chân Khí Thể Hơi luôn luôn đóng vai trò rất quan trọng trong sự sống con người, sự sống Trái Đất, sự sống vũ trụ.
Thái Tử phân tích sự quan trọng Chân Khí Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đối với sự sống như sau.
Người ta có thể nhịn đói cả tháng cũng không chết. Nhưng nhịn uống một tuần là chết ngay. Nhưng điều đáng nói ở đây chỉ cần nín thở vài hơi là ngủm cuộc đời. Như vậy Thể Hơi Chân Khí đối với sự sống vô cùng quan trọng. Thể hơi chân khí không những rất quan trọng trong sự sống mà còn đóng vai trò chủ lực trung gian giữa Linh Hồn và Thể Xác cũng như sức khoẻ và trường thọ.
Thái Tử nhìn thấy nhân loại xem chân khí rất thường. Vì chân khí đâu đâu cũng có, không cần tìm kiếm chi cả đây là một sự sai lầm lớn, trên đời nầy không có cái gì quý hơn chân khí, kể cả vàng bạc châu báu.
Sự sống con người chỉ cần một lượng chân khí hít thở không gián đoạn là đủ nên con người nào có thấy chân khí quý hiếm gì đâu.
Còn Thiên Tiên, Địa Thiên thời khác hẳn. Tu Thiền luyện khí hít thở thu nạp tinh hoa chân khí tích luỹ vào cơ thể con người càng nhiều càng tốt, không những trường thọ vô bịnh tật mà còn tích tụ được nhị xác thân. Thậm chí hiển hiện pháp thuật Thần Thông tự tại. Nhân loại phàm tục không thấu rõ được điều nầy nên xem thường tinh hoa chân khí. Chỉ hít thở theo quán tính tự nhiên duy trì sự sống. Một liều lượng chân khí vừa đủ để cơ thể sống mà thôi. Còn tập trung tư tưởng để hít thở thu nạp tinh hoa chân khí là một chuyện khác.
Thái Tử dùng huệ nhãn quan sát chân khí thấy rõ tinh hoa ngũ khí, tinh hoa kim khí, tinh hoa mộc khí, tinh hoa thuỷ khí, tinh hoa hoả khí, tinh hoa thổ khí lưu chuyển cùng khắp hu không theo thể lực, thể hơi, thể lỏng, thể đặc đầy khắp không gian chỗ nào cũng có. Thái Tử nghĩ rất tiếc càng về sau con người càng làm ô nhiễm tinh hoa ngũ khí này. Chính con người làm hại con người, làm hại sức khoẻ, làm hại lục phủ ngũ Tạng của họ, bệnh tật dữ dội.
Tinh Hoa Chân khí vũ trụ nếu đem phân tích thời vô số kể nhưng cốt lại thời hai vế mà thôi. Thanh khí và trược khí. Thanh khí là thể khí không bị ô nhiễm độc hại còn trược khí là khí ô nhiễm độc hại.
Thái Tử nhìn thấy các Thiên Tiên, Địa Tiên tu luyện tinh hoa chân khí không những giảm đi sự đói khác bệnh tật. Lại thêm trường thọ, trí huệ khai mở, đã thông kinh mạch mà còn làm giảm đi sức ép của vũ trụ. Giảm luôn lực hút Trái Đất, thân thể nhẹ nhàng, thân hình cân đối xinh đẹp mịn màng. Nhất là đối với Tiên Nữ.
Thái Tử nghĩ một đất nước luôn gìn giữ môi trường trong sạch chân khí không bị ô nhiễm, toàn dân ai ai cũng tu thiền luyện khí, thời làm giảm đi gánh nặng xã hội, về bệnh tật, ngu si, lạc hậu. Đất nước ấy sẽ trở thành đất nước Thần Thánh. Luyện chân khí tích tụ vào cơ thể không những chịu đựng được nhiệt độ cao, cái lạnh cũng không làm hại được. Nếu tu luyện chân khí đỉnh cao thời khỏi hẳn bệnh tật. Làm cơ bản cho mọi sự Thần Thông biến hoá và Thái Tử đã nhớ lại vì Thiên Sứ Thiên Thần Trí Huệ đã thể hiện thần thông tự tại trước Thái Tử.
Thái Tử lại dùng thanh tịnh Huệ Nhãn quan sát vũ trụ. Thời thấy rõ vô hình điều khiển hửu hình. Vô sắc điều khiển hửu sắc. Muốn khám phá sự bí mật huyền vi vũ trụ. Không có con đường nào khác hơn là phải tu thiền luyện khí. Thu hút Tinh Hoa chân khí vũ trụ tạo lập nhị xác thân. Xác thân tinh khí và thần lực. Nhờ nhị xác thân, thời Chân Tánh mới hiển lộ thần thông trí huệ như ý được. Tiến tới toàn năng toàn giác. Mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn.
Thái Tử lại dùng Huệ Nhãn quan sát trên thể hơi chân khí vũ trụ, Thể Lực vũ trụ không đâu là không có, Thể Lực vũ trụ cũng chính là Thần Lực vũ trụ, trên Thể Lực vũ trụ là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ gồm 2 vế, Chân Tánh và Thức Tánh, Chân Tánh ví như nước, Thức Tánh ví như bọt nước.
Một khi thể lực vũ trụ bị khuấy động thời chuyển hoá thành điện năng, khi điện năng ma sát chạm nhau, thời tạo ra chân hoả Tam Muội không có thứ gì dập tắc được. Thứ lửa tam muội nầy thiêu rụi thế giới vật chất. Biến tinh thể Thảo Mộc thành tinh thể mặn.
Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần không phải là để tu luyện chứng Đạo làm Phật Tổ hay vì danh lợi. Mà là Đấng cứu thế, truyền lời dạy Cha Trời xuống chốn nhân gian. Thiên Ấn vũ trụ. Muốn làm được điều này Thái Tử phải vượt qua bao khó khăn, thử thách sáng suốt phen lần từng mối huyền vi vũ trụ. Tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn Thiên Ấn truyền xuống thế.
Muốn làm được việc đó Thái Tử không thể không có nhị xác thân Tinh Khí Thần, do tu thiền luyện khí mà ra. Nhị xác thân là xác thân trung thân giữa vô sắc thân và phàm thân. Vô sắc thân là Thân Thức, Thức Thân, Thần Lực, với thức thân Thần Lực này các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua sắt thép, sành sứ, Kính, Đá xuyên qua quả Địa Cầu không để lại dấu vết, còn nhị xác thân không làm được điều đó, xác thân của Thiên Tiên, Địa Tiên nhị xác thân như trên Kinh đã nói, là xác thân do tu thiền luyện khí mà ra. Lâu hay mau đều do người tu luyện mà thành.
Để hiểu rõ hơn Thái Tử phân tích: trên xác thân phàm tục là nhị xác thân Tinh Khí Thần, Thần ở đây không phải là Chơn Thần mà là Thần Lực. Trên nhị xác thân Tinh Khí Thần, là căn thân Thần Thức Huệ Mạng Linh Hồn. Với Căn Thân Linh Căn Thần Thức Huệ Mạng Linh Hồn. Các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua tất cả. Sắt, thép, sành sứ, kính, kiến, thậm chí đi xuyên qua quả địa cầu, mà không để lại dấu vết. Vì thế mất xác thân phàm tục, chẳng khác nào lột bỏ một vỏ bọc linh hồn, lớp võ bọc già cỗi. Không ảnh hưởng gì tới linh hồn cả. Thậm chí cả nhị Xác Thân, Tinh Khí Thần cũng thế. Chỉ có Căn Thân Huệ Mạng Linh Hồn là vô cùng quan trọng. *********
Hết phần 5 chương 8 mời xem tiếp phần 1 chương 9 Long Hoa Mật Tạng. Có thể nói trong tam thiên đại thiên thế giới không có gì quý hơn bộ kinh nầy. Những ai ca ngợi Bộ Kinh Nầy thời những người nầy trong vô lượng kiếp, thường đứng đầu đại chúng, lời nói ai cũng muốn nghe. Huống chi là yêu quý gần gủi đọc tụng tìm hiểu ý nghĩa của kinh.
Để tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn Thiên Ấn vũ trụ, Thái Tử bước lên nất thang đầu tiên tập trung ý chí cho cuộc mở màn tu thiền luyện khí tiến sâu vào bí mật vũ trụ, cảnh giới tối cao của trí huệ. Theo sự nhân biết của Thái Tử, con người là Tiểu Thiên vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ mà thôi. Có thể nói một cách dễ hiểu hơn, con người là Tinh Hoa vũ trụ do Tổ Tiên tạo ra bao hàm cả Âm lẫn Dương. Luyện nhị xác thân cũng thế phải biết kết hợp Tinh Hoa Âm Dương của chân khí. Âm Dương giao hoá, kỳ tích phát sanh, nhị xác thân phát triển hình thành. Ẩn tàng trong thi thể xác thịt phàm tục.
Theo tính toán nhận thấy của Thái Tử. ÂM và DƯƠNG ngày đêm, phải có thời điểm giao hợp kết tinh giao nhau sanh sanh hoá hoá.
Thời điểm kết tinh của ÂM DƯƠNG là Tý - Ngọ thời điểm giao hoá của ÂM DƯƠNG là Mẹo - Dậu.
Để tâm ý thanh tinh là nền tản làm phát sanh Thần Lực. Ý trí trở nên mạnh mẽ thu hút chân khí vũ trụ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu đưa sâu vào lục phủ ngũ Tạng tích tụ tại Đan Điền. Mỗi lần hít thở theo ý tưởng đưa chân khí vào Đan Điền là mỗi lần tích góp Tinh Khí Thần, làm tăng thể lực trong người giảm đi sự đói khác và mỏi mệt.
Để tu luyện nhị xác thân mau đạt kết quả Thái Tử tự vẽ hình người. Chấm các huyệt đạo trên người một cách thuần thục. Từ huyệt đạo trọng yếu chủ lực cho đến các huyệt đạo bình thường, 365 huyệt. Gần tương ứng với 365 ngày.
Với tư thế ngồi xếp bằng lưng thẳng đầu hơi cúi, mắt mở hí hí nhìn chót mũi. Hai chân tréo lên nhau, hai lòng bàn chân ngữa lên trời Có lúc Thái Tử ngồi xếp bằng hai chân chồng lên nhau mà thôi, hai lòng bàn tay cũng thế, với tư thế ngồi như thế. Thái Tử hướng tiểu thiên vũ trụ về Đại Thiên vũ trụ. 360 huyệt đạo thông theo hai lòng bàn chân, hai lòng bàn tay và đỉnh đầu. Ngũ thông năm cửa lớn thông thiên, thông địa của con người.
Có khi Thái Tử đan tréo các ngón tay chồng lên nhau, với tư thế ngồi tu thiền luyện khí của Thái Tử với bao ẩn tàng triết lý mầu nhiệm. Những bước đi cơ bản để rồi tiến sâu hơn trên con đường hội nhập chinh phục vũ trụ. Nhờ ý chí cương quyết hơn một tháng đầu Thái Tử dốc hết tâm trí, mọi tạp niệm đều dứt sạch, ngồi kiết già tập trung luyện khí, chỉ thấy cơ thể khoẻ hơn. Còn tất cả thời không phát hiện được gì.
Thái Tử đâm lo suy nghĩ, không lẽ ta thấy sai, nên suy luận cũng sai. Phương pháp tu thiền luyện khí còn có chỗ chưa hợp lý nên tu luyện cả tháng mà chưa thấy hiệu quả. Thái Tử để hết tâm trí suy luận lại từ đầu. Không lẽ tu thiền luyện khí đến cả trăm năm mới thành thời hết đời người mất còn gì, còn đâu mở ra hướng đi mới cứu nhân độ thế.
Không lẽ phương pháp tu thiền luyện khí ta cũng như các Đạo sĩ tu thiền luyện khí của các Thần giáo. Thái Tử tự nghĩ Không thể được, sự tu luyện của các Đạo sĩ Thần giáo là sự tu luyện lần mò không nắm bắc được bí quyết tu thiền luyện khí. Cũng như sự huyền vi của tu thiền luyện khí.
Các giáo chủ Thần Giáo không làm chủ được Linh Hồn, không làm chủ được lục Căn lục Thức, cũng như thức tánh, Chân tánh của mình. Vô minh luôn luôn xoay chuyển, khó mà tiến sâu vào bí mật tu thiền luyện khí đỉnh cao của Tạo Hoá. Không đủ trí tuệ phen lần nhân duyên bí mật đó.
Trong lúc Thái Tử để hết tâm suy luận lại từ đầu, hầu tìm ra giải pháp những chỗ chưa hợp lý. Vô tình Thái Tử nhìn thấy một chồi cây xanh mới mọc ngoài khung cửa, chồi xanh ấy rất lạ hầu như cuốn hút Thái Tử. Thái Tử tò mò tập trung tư tưởng khám phá, cả hàng giờ nào có thấy chi lạ đâu, không có gì thay đổi. Chồi cây vẫn là chồi cây.
Lúc ấy Thái Tử mới thôi tập trung khám phá chồi cây. Tiếp tục luyện tập tu thiền luyện khí, thời gian trôi qua lại thêm 1 tuần nữa, lần này Thái Tử cảm thấy cơ thể hầu như có điềm khác lạ nhưng chưa được rõ ràng lắm.
Vô tình Thái Tử nhìn ra chồi cây xanh, thời vô cùng kinh ngạc, chồi cây xanh thêm nhiều lá sum sê. Thái Tử tự hỏi chồi xanh ra lá hôm qua, hay bữa nay? Hay là sự phát triển không dừng rất chậm. Thái Tử như bừng lên giác ngộ phải rồi, sự phát triển của chồi cây rất chậm. Trong một giờ khó nhìn thấy sự phát triển của nó mà phải nhìn hàng tuần, thời mới thấy sự phát triển của nó. Tu thiền luyện khí khác nào phải nhìn hàng tháng hàng năm mới thấy kết quả. Thái Tử nhìn chồi cây sum sê như cảm ơn sự nhắc nhở đánh thức của người.
Đúng lúc ấy có một người xuất hiện, Thái Tử vô cùng ngạc nhiên. Thái Tử hỏi: Ngươi đến đây tìm ai?
Người ấy lễ phép nói: Tôi tìm Thái Tử.
Thái Tử nghe người ấy nói vô cùng kinh ngạc và hỏi: Ngươi tìm ta có chuyện gì?
Người ấy lễ phép thưa: Nghe Thái Tử là người thông thái, trí huệ vô biên, Cha Tiểu Thần qua đời để lại cho Tiểu Thần vật gia bảo quí hiếm, bảo vật Thần Lửa, khi nào cần thời lấy lửa, nhưng Tiểu Thần tìm mãi không tìm thấy lửa, có người bảo Tiểu Thần thử ma sát vào nhau, Tiểu Thần ma sát mãi chỉ thấy hơi nóng bốc ra mà thôi, cọ qua cọ lại cả năm cũng không thấy lửa, vật lấy lửa coi như là vật Thiên. Người nào làm chủ vật đánh lửa coi như người đó là con của Thần Mặt Trời.
Ở vào thời kỳ ấy lửa vô cùng quan trọng đối với con người và có nhiều Thần giáo thờ lửa.
Nghe chuyện lạ Thái Tử tò mò hỏi: Ngươi có đem theo vật chí bảo đó không?
Người ấy nói: Dạ có nó rén cứng vô cùng.
Người ấy nói xong đưa cho Thái Tử. Thái Tử cầm lấy quan sát một hồi rồi ma sát vào nhau mỗi lúc một mạnh, sự ma sát liên tục của hai thỏi đá đã bốc khói. Thái Tử vận lực lên hai bàn tay ma sát hai thỏi đá tốc độ nhanh hơn mạnh hơn, thời ánh sáng lóc lên tia lửa phát ra dữ dội. Thái Tử đưa chúng vào mồi để cháy, tức thì ngọn lửa bốc lên, nếu sơ ý không cẩn thận sẽ gây ra hoả hoạn, tàn phá thiêu rụi núi rừng, nhà cửa sự sống của con người và vạn vật. Đốm lửa cháy rừng.
Người xuất hiện la lên: Có lửa rồi, thế mà tôi cọ xác chúng cả năm không có, Tôi hiểu rồi.
Người ấy nhận lại vật đánh lửa rồi biến mất. Thái Tử vô cùng kinh ngạc người ấy là Thiên Thần sao?
Lửa Âm Dương. Lửa Lòng. Lửa Công Lý, Chân Lý. Những thứ lửa mà Thái Tử cần phải biết cách tạo ra nó, dùng nó để làm lợi ích cho cuộc sống con người, thứ ánh sáng đem về cho nhân loại bao sự sống yên vui hạnh phúc. Thái Tử là nhà khoa học vĩ đại. Luôn luôn khám phá quy luật bí mật sẳn có nơi vũ trụ làm lợi ích phục vụ cho đời sống con người. Thái Tử lấy lửa theo phương thức tự nhiên. Không có sự bí mật Thần Lửa nào cả mà chỉ áp dụng theo phương thức khoa học, khi ngọn lửa đã bốc cháy, Thái Tử nhìn lên không gian theo hướng biến mất của người xa lạ bổng nghe trên không có giọng hát vọng xuống. Lửa Lòng, Lửa Huệ, Lửa Âm Dương Quy luật xưa nay vốn sự thường Huyền cơ bí mật nào xa lắm Quanh ta đầy dẫy bí pháp vương.
Thái Tử như người tỉnh mộng, trí huệ bừng khai mở lên một đỉnh cao mới. Thái Tử giờ đây nhìn vào cái gì vật gì, cảnh quang đều nhìn thấy ẩn tàng lời dạy của Đức Cha Trời. Đấng tạo vật Đấng lập lên tất cả, vũ trụ sự sống chết cùng con người. Đấng toàn năng, toàn giác. Đấng sáng tạo và lập lên tất cả. Sự phát triển của cỏ cây, cũng như cách lấy lửa, làm tăng thêm sự giác ngộ, hiểu rõ về thành quả trên bước đường mình đi.
Niềm tin và sự quyết đoán dẫn Thái Tử đến mục đích cuối cùng. Thái Tử siêng năng tu tập không dừng nghỉ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu, 4 thời 8 giờ không bỏ sót. Ý chí Thọ tưởng thu nạp chân khí đều đặng đưa sâu tận Đan Điền. Còn những giờ khác Thái Tử luôn trụ tâm thức tại Đan Điền, thở ra hít vào bằng Đan Điền, cứ thế ngày qua tháng lại hơn một năm. Hôm nay Thái Tử kiểm chứng sự thành công hơn một năm đã qua. Thời thấy rõ sự thay đổi trong cơ thể, cũng như các giác quan, nếu đem so sánh với lúc chưa tu thiền luyện khí, thời hai trạng thái khác xa như hai người ở hai cảnh giới khác nhau. Như người ốm nặng và người khoẻ mạnh hay nói một cách khác một phàm một Thánh. Sự hít thở Thái Tử giờ đây khác với người thường, không phải do phổi làm chủ mà do Đan Điền làm chủ, phổi chỉ là giai phụ. Mỗi lần tham thiền luyện khí, thời nơi Đan Điền toả ra luồn khí nóng lan toả ra các huyệt Đạo xung quanh như. Hoang Du, Thuỷ Phân, Thiên Khu, Đại Cự, Khí Hải Quan Nguyên, rồi lan toả rộng ra Phúc Kết, Thương Đạo, xuống Cực Trung lên Trung Quản, Cự Huyết, Cửu Vĩ, lan toả ra Thuỷ Đạo, Xung Môn, Đại Hách, Kỳ Môn, Khí Xung lan xuống Khúc Cốt, Hội Âm, lan ra Đới Mạch, Lương Môn, Cự Liêu, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Ngũ Khu. Làm cho toàn phần bụng nóng rang. Rồi lan toả khắp châu thân, làm cho thân người nhẹ bổng, tuy hôm nay trời giá rét xuống đến không độ, nước như đóng băng, thế mà Thái Tử không thấy lạnh lẽo chi cả, khi Thái Tử chỉ mặc một chiếc áo mỏng. Thái Tử không cho mặc áo mỏng dễ cảm lạnh là vì Thái Tử hiểu rõ thể lực của mình giờ đây đã khác hẳn hơn trước kia, có thể chịu đựng sự nóng lạnh mà người thường không thể nào chịu nổi.
Đồ ăn thức uống được đưa đến những món cao lương mỹ vị hàm lượng bổ dưỡng cao. Nếu không luyện tập thời rất dễ bị bệnh béo phì, làm tổn thương đến các kinh mạch, nhưng lần lần Thái Tử càng phát hiện là mình không thấy đói khác. Nhất là những món ăn Động Vật dần dần không thích hợp với khẩu vị của Thái Tử. Vì các giác quan đã dần dần trong sạch. Nhất là cơ quan vị giác, khứu giác. Cũng như cơ thể lục phủ ngũ Tạng phản tỉnh khó chịu khi ăn chất Động Vật có lúc dẫn đến nôn mửa, gây khó chịu cho cơ thể. Có thể nói đây là sự phản ứng của nhị xác thân mới hình thành trong cơ thể của Thái Tử. Nếu nhị xác thân của Thái Tử hình thành lớn mạnh thời Thái Tử trở thành người ăn chay, chỉ ăn toàn Thực Vật. Điều này đã làm cho Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ lo lắng cho sức khoẻ Thái Tử vì sợ Thái Tử ốm gầy rồi mất mạng, theo quan niệm của nhân gian thường tình. Trường Trai chính là khổ hạnh, nhưng họ có hiểu đâu Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đều coi trọng việc ăn chay, vì ăn chay ẩn tàng nhiều lợi ích. Về mặt tâm linh thời Đại Từ Đại Bi, còn về mặt thể xác không những đẩy lùi bệnh tật mà còn tích tụ Chánh Khí phát Đại Dương Quang, tu luyện mau thành chánh quả. Đó là một trong trăm nghìn lợi ích, còn nhiều lợi ích nữa kể không hết. Sự dư thừa các món ăn hằng bữa của Thái Tử đã làm cho Phụ Vương cùng Mẫu Hậu lo lắng. Sao con lúc này ít ăn như thế hay có bệnh hoạn gì không? Nhưng vì có lời dặn của Thái Tử, không ai được gặp vì gặp như thế không những làm cho Thái Tử mất mạng trong lúc nhập thiền vận hành chân khí mà còn làm cho Thái Tử Động Tâm, tu luyện khó thành chánh quả.
Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ không dấu nổi lo lắng trong lòng, liền kêu xão Nữ thị Tỳ hỏi: Người thấy sức khoẻ Thái Tử dạo này ra sao? Thị Nữ ngươi thấy Thái Tử dạo này ra sao?
Nhìn nét mặt lo lắng Quốc Vương, Vương Hậu lo cho Thái Tử không phải là lo cho mình. Nhưng Thị Nữ cảm thấy lòng ấm áp như có cái gì cảm động nghèn nghẹn trong lòng.
Thị Nữ lễ phép trả lời: Muôn tâu Quốc Vương, Vương Hậu. Con chỉ được phép đem đồ ăn thức uống đến phòng ăn, chừng nào có hiệu lịnh Thái Tử mới được vào dọn dẹp, gần 2 năm nay tiểu Nữ chưa một lần nhìn thấy Thái Tử, thời làm sao tiểu Nữ biết Thái Tử mập ốm thế nào mà kể.
Quốc Vương và Vương Hậu Phi nghe xão Nữ thị tỳ nói thế, thời chỉ biết thở dài mà thôi. Quốc vương nghĩ vì tương lai của non sông Tổ Quốc mà con ta phải chịu bao khổ sở, Cha con xa cách, tuy ở gần mà cách nhau như hàng vạn dặm. Với bao nỗi nhớ thương. Sợ con đau ốm vì dốc sức tu luyện, tìm ra Văn Hoá Cội Nguồn Thiên ẤN vũ trụ, Bình Định Thiên Hạ về một mối. Đẩy lùi chiến tranh, đẩy lùi Lạc Hậu, đói nghèo, mở ra trang sử mới, trang sử công bằng văn minh, bảo tồn độc lập lâu dài, đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà từ xưa tới nay chưa có ai làm nỗi.
Kinh Dương Vương nghĩ phía trước còn quá khó khăn, đầy dẫy gian nan kham khổ mơ hồ không chút hy vọng. Không biết giờ này đã gần 2 năm con đã lần ra manh mối nào chưa? Để cho con có đầy đủ sức khoẻ, thay thế cao lương mỹ vị nem Rồng chả Phụng bằng những Thực Vật quí hiếm, trên núi tuyết, nơi hang sâu, ngoài hang Đảo, dưới biển sâu, để tăng thêm sức khoẻ. Mật ong, sữa bò, tổ yến nấu với gạo nếp, uống nước sâm nghìn năm, cọng với Linh Chi, tuyết quả, phải nói đây là những món ăn thức uống quí hiếm trong đời, trợ duyên cho người tu thiền luyện khí mau Đắc Đạo.
Nhờ trợ duyên những món ăn quí hiếm Thái Tử thể lực Chân Khí tăng tiến thần tốc. Mỗi khi tham thiền luyện khí, Chân Khí cuồn cuộn tăng lên như nước biển triều dân, cơ thể nhẹ nhỏm, tưởng chừng như bay bổng khỏi mặt đất, không thấy mệt mỏi chi cả dù thức suốt ngày suốt đêm hàng tháng.
Trải qua một thời gian ngắn chỉ hơn 3 năm Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Hiếm thấy trong thế giới tu thiền luyện khí, trong nhân loại từ xưa tới nay. Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử là người tu thiền khí rất siêng có hơn 70 năm cũng không hơn được Thái Tử bây giờ.
Đạt đến cảnh giới tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Không phải ngẫu nhiên mà thành tựu mau chóng đến thế mà do cơ thể Thái Tử có nhiều tướng tốt, lại thêm thông minh xuất chúng trí huệ thượng thừa, tu theo phương pháp thượng thừa, cọng với nhiều nhân duyên tốt đẹp khác nữa. Nên mới có kết quả thành tựu nhanh đến nỗi ai nghe qua cũng khâm phục, trong thế giới tu thiền luyện khí.
Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ thu nhỏ cả một sự huyền bí, khám phá bí mật con người là nền tản chỗ tựa tiến dần khám phá vũ trụ. Linh giác vũ trụ, vật thể vũ trụ. Linh Hồn con người, thể xác con người, sợi móc xích trung gian để tồn tại, chính là vô cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ, Thần lực con người. Thế giới vật chất cũng như thể xác con người tồn tại hay tan rã đều liên quan đến Lực này, Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực. Vô Cực Chân Nguyên là thể lực vô vi xuyên qua tất cả không để lại dấu vết là đầu dây mối nhợ chuyển hoá hình thành ra thế giới vật chất.
Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và vật thể vũ trụ, tức là bản thể Linh giác Tổ Tiên và thế giới vật chất, vật thể vũ trụ, mà thế giới vật chất có ba thể, từ bán vô vi đến hửu vi, từ thể hơi đến thể lỏng, thể đặc, có thể nói một cách dễ hiểu, Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và Chân Khí vũ trụ, siêu vô vi và hửu vô vi. Siêu vô vi là Linh giác vũ trụ. Hửu vô vi là Chân Khí vũ trụ.
Hửu vô vi Chân Khí chuyển hoá thành thể hơi vũ trụ, là trung gian giữa Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ và vật chất hửu sắc Thể Lỏng.
Rồi từ vật chất hửu sắc, Thể Lỏng chuyển hoá thành nước, làm trung gian giữa Hửu vô vi Chân Khí thể hơi và hửu sắc thể Đặc. Sự liên quan móc xích, từ vô hình đến hửu hình, từ vô vi đến hửu vi, từ vô sắc đến hửu sắc. Từ Thể Lực đến Thể Hơi đến Thể Lỏng đến Thể Đặc. Sự liên quan tồn tại hay tan rã của bốn thể trên, qua liên kết tiến hoá, chuyển hoá tồn tại hay huỷ diệt Thái Tử thấy biết rõ ràng.
Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ, tiểu Thiên vũ trụ. Hiểu Tiểu Thiên vũ trụ là hiểu Đại Thiên vũ trụ, hiểu con người là hiểu vũ trụ, hiểu vũ trụ là hiểu bí mật của con người, hiểu bí mật của con người chính là chiếc chìa khoá vạn năng để mở tung vũ trụ, kho tàng tri thức nhân loại mà Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa thành tâm bảo vệ và gìn giử. Đó chính là Văn Hoá Cội Nguồn, Thiên Ấn vũ trụ.
Thái Tử tốm thâu Tinh Hoa vũ trụ, bổ sung bồi đắp cho Tinh Hoa con người, đưa con người tiến đến giai đoạn mới, giai đoạn tiến về vũ trụ, hiểu vũ trụ và làm chủ vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, tốm thâu Chân Khí vũ trụ, cũng có nghĩa tốm thâu vũ trụ, từ vô vi Thần Lực vũ trụ đến hửu vi hửu sắc vũ trụ cọng thêm sự ăn uống của Thái Tử, đã đầy đủ nhân duyên kết hợp bốn thể, Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc, đưa Thái Tử đến thành tựu nhị xác thân nhanh chóng, Tinh khí Thần hợp nhất chuyển hoá. Nhị xác thân đã hình thành, thời những bí mật vũ trụ, bí mật con người lần lần hiển lộ. Dẫn con người từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, hiểu con người mới làm chủ được con người. Hiểu tâm Linh mới làm chủ được Tâm Linh. Hiểu xã hội mới làm chủ được xã hội. Hiểu vũ trụ mới làm chủ được vũ trụ. Hiểu công năng của tu thiền luyện khí, thời người tu thiền luyện khí mới thu lượm gặt hái thành quả mau chóng được.
Điều đáng nói ở đây muốn tu thiền luyện khí có hiệu quả cao, thời phải làm chủ được tâm của mình, được ý của mình. Tức là hàng phục Tâm viên, ý Mã, Thân Tâm thanh tịnh, chăm chỉ tốm thâu Chân Khí và giữ Chân Khí tại Đan Điền. Tâm Điền - Khí Điền - Đan Điền. Là mật tạng vũ trụ. Ý thức làm chủ tam điền này. Thời tu thiền luyện khí thành tựu mau chóng. Nhờ thành tựu nhị xác thân mau chóng. Vì thế con người cũng tiến tới đỉnh cao mau chóng, tiến lần tới những nất thang làm chủ vũ trụ. Thái Tử hiểu rõ trong thế giới Động Vật có đến 8 muôn 4 nghìn loài, chỉ có loài người là Động vật cao cấp mà cũng chỉ có loài người mới có khả năng làm chủ vũ trụ. Trở về với Đấng Ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ. Tạo lập lên con người. Tốm thâu Tinh Hoa Chân Khí vũ trụ, được rót vào cơ thể con người. Tức thời làm tăng thêm sức mạnh, kể cả sức mạnh Thần Lực, Thể Lực, Ý Chí, mọi hiện tượng bắt đầu thay đổi, đẩy lùi đói khác, bệnh tật, nóng lạnh của thời tiết, càng lúc càng rõ rệt. Khi tu thiền luyện khí kết quả thành tựu lên cao. Không những thế người tu thiền luyện khí làm cho huyệt Đạo càng ngày càng thông suốt, da dẽ hồng hào tăng tuổi thọ, tráng kiện về thể xác, minh mẩn về tâm hồn, phán đoán chính xác, giải quyết mau lẹ. Đó là ưu điểm của người tu thiền luyện khí. Thái Tử nghĩ một dân tộc văn minh, thời dân tộc đó văn minh vật chất phải đi đôi với văn minh tinh thần, thời dân tộc đó mới thật sự văn minh. Con người muốn có hạnh phúc trọn vẹn, phải biết tu dưỡng thể xác, cũng như tu dưỡng tinh thần, nếu không phải thế thời khó mà tìm thấy hạnh phúc trọn vẹn.