Thi Viện đăng 9 bài Mạn hứng 漫興 của Đỗ Phủ đã lâu nhưng trong đó chỉ có 3 bài có bản dịch của LXT bên maihoatrang. Tuy nhiên trong 3 bài dịch đó thì 2 bài không được chính xác lắm. Nay dịch nghĩa lại cả 9 bài và mong mọi người tranh thủ chọn vần :-)
Chùm thơ này Đỗ Phủ viết mùa xuân năm 761.
其一
眼看客愁愁不醒,
無賴春色到江亭。
即遣花開深造次,
便覺鶯語太丁寧。
Nhãn khán khách sầu, sầu bất tỉnh,
Vô lại xuân sắc đáo giang đình.
Tức khiển hoa khai thâm tạo thứ,
Tiện giác oanh ngữ thái đinh ninh.
Mắt nhìn thấy khách sầu, sầu không tỉnh,
Sắc xuân bỗng dưng vô cớ đã đến nơi đình bên sông.
Lập tức khiến hoa lần lượt nở đầy,
Lại khiến cả chim oanh hót rộn ràng.
其二
手種桃李非無主,
野老墻低還是家。
恰似春風相欺得,
夜來吹折數枝花。
Thủ chủng đào lý phi vô chủ,
Dã lão tường đê hoàn thị gia.
Kháp tự xuân phong tương khí đắc,
Dạ lai xuy chiết sổ chi hoa.
Tay trồng đào mận, không phải là không có chủ,
Lão quê tuy tường thấp, nhưng cũng là nhà.
Gió xuân như đã coi thường được ta rồi,
Đêm đến thổi gãy mấy nhành hoa.
Dã lão: chỉ Đỗ Phủ. Tác giả khi về già ở gần Đỗ Lăng (tức lăng của Hán Tuyên Đế) và Thiếu Lăng (tức lăng của Hứa Hậu) nên thường tự gọi mình là Đỗ Lăng bố y và Thiếu Lăng dã lão.
其三
熟知茅齋絕低小,
江上燕子故來頻。
銜泥點污琴書內,
更接飛蟲打著人。
Thục tri mao trai tuyệt đê tiểu,
Giang thượng yến tử cố lai tần.
Hàm nê điểm ô cầm thư nội,
Cánh tiếp phi trùng đả trước nhân.
Đã biết rõ là nhà tranh này rất thấp và nhỏ,
(Mà sao) chim én từ sông vẫn cứ hay đến đây.
Ngậm bùn làm bẩn hết cả đàn và sách,
Lại cùng với côn trùng bay đập vào người.
其四
二月已破三月來,
漸老逢春能幾回。
莫思身外無窮事,
且盡生前有限杯。
Nhị nguyệt dĩ phá, tam nguyệt lai,
Tiệm lão phùng xuân năng kỷ hồi.
Mạc tư thân ngoại vô cùng sự,
Thả tận sinh tiền hữu hạn bôi.
Tháng hai đã hết, tháng ba tới,
Sắp già rồi, không biết còn thấy mùa xuân được mấy lần.
Thôi chớ quan tâm đến những việc xa vời ngoài thân nữa,
Mà hãy cạn chén rượu có hạn khi sống ở đời.
其五
腸斷春江欲盡頭,
杖藜徐步立芳洲。
顛狂柳絮隨風去,
輕薄桃花逐水流。
Trường đoạn xuân giang dục tận đầu,
Trượng lê từ bộ lập phương châu.
Điên cuồng liễu nhứ tuỳ phong khứ,
Khinh bạc đào hoa trục thuỷ lưu.
Đau lòng vì xuân trên sông đã sắp hết,
Chống gậy bằng cỏ lê đi dạo, đứng trên bãi sông hoa cỏ thơm.
Bông liễu bay điên cuồng theo gió,
Hoa đào trôi man mác theo dòng nước.
其六
懶慢無堪不出村,
呼兒自在掩柴門。
蒼苔濁酒林中靜,
碧水春風野外昏。
Lãn mạn vô kham bất xuất thôn,
Hô nhi tự tại yểm sài môn.
Thương đài trọc tửu lâm trung tĩnh,
Bích thuỷ xuân phong dã ngoại hôn.
Lười và chậm, nhưng vẫn không chịu không ra khỏi thôn,
Dặn con hãy cứ tự nhiên đóng cổng gỗ (đóng cổng khi ngày hết, ý nói đi chưa biết khi nào về).
(Một mình với) rêu xanh, rượu đục trong rừng tĩnh,
Nước biếc, gió xuân, và hoàng hôn ngoài nội.
其七
糝徑楊花鋪白氈,
點溪荷葉疊青錢。
筍根雉子無人見,
沙上鳧雛傍母眠。
Tảm kính dương hoa phô bạch chiên,
Điểm khê hà diệp điệp thanh tiền.
Duẫn căn trĩ tử vô nhân kiến,
Sa thượng phù sồ bàng mẫu miên.
Hoa liễu rơi đầy đường như phô bày tấm thảm (chăn) trắng,
Lá sen non điểm trên mặt nước suối, như những đồng tiền chen nhau (trong thơ cổ, lá sen non thường được ví như đồng tiền).
Dưới gốc măng có con chim trĩ, không ai thấy,
Trên cát con chim non ngủ bên cạnh mẹ.
其八
舍西柔桑葉可拈,
江畔細麥復纖纖。
人生幾何春已夏,
不放香醪如蜜甜。
Xá tây nhu tang diệp khả niêm,
Giang bạn tế mạch phúc tiêm tiêm.
Nhân sinh kỷ hà xuân dĩ hạ,
Bất phóng hương dao như mật điềm.
Lá dâu mềm ở phía tây nhà đã có thể hái được,
Bên sông lúa đã lên nho nhỏ.
Đời người có được bao lâu, xuân đã chuyển sang hè,
Chớ bỏ đi thứ rượu thơm ngọt như mật.
其九
隔戶楊柳弱裊裊,
恰似十五女兒腰。
誰謂朝來不作意?
狂風挽斷最長條。
Cách hộ dương liễu nhược diểu diểu,
Cáp tự thập ngũ nữ nhi yêu.
Thuỳ vị triêu lai bất tác ý ?
Cuồng phong vãn đoạn tối trường điều.
Cách nhà bên, cây dương liễu mềm phấp phới,
Như eo của cô gái mười lăm tuổi.
Ai biết được sao lúc sáng do vô ý,
Một trận cuồng phong đã thổi đứt cành dài nhất.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.