Trang trong tổng số 1 trang (8 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

風の歌を聴け (Kaze no uta o kike)
©1979 Haruki Murakami
Tam Diệp Thảo dịch từ bản tiếng Indonesia
Dengarlah nyanyian angin ©2008 PT Gramedia Jakarta
(ISBN-13: 978-979-91-0137-2)








1.

« Không có câu văn hoàn chỉnh. Cũng như chẳng có nỗi tuyệt vọng hoàn hảo. »

Một nhà văn tôi tình cờ biết đến khi vẫn còn là sinh viên đã nói thế với tôi. Mãi sau này tôi mới hiểu hết ý nghĩa câu nói đó. Ít ra, tôi đã xem nó là một câu thú vị.

Tuy vậy tôi luôn rơi vào cảm giác tuyệt vọng mỗi lúc định viết một điều gì. Bởi phạm vi những gì tôi có thể viết rất giới hạn. Chẳng hạn, dù tôi có thể viết về voi, có sẽ tôi sẽ chẳng thể viết một điều gì về người huấn luyện voi. Đại loại vậy.

Tôi mắc kẹt mãi trong thế tiến thoái lưỡng nan đó suốt tám năm trời. Tám năm. Quả là một thời gian dài.

Miễn có thái độ ham học hỏi từ mọi điều, thì việc già đi hẳn cũng chẳng đau khổ là mấy. Mọi người vẫn thường nghĩ thế.

Kể từ khi vừa bước qua ngưỡng tuổi hai mươi, tôi cố duy trì thái độ sống như vậy. Kết quả là, vài lần bị đấm, bị lừa dối, bị hiểu lầm, và đồng thời có được những trải nghiệm lạ kỳ. Nhiều loại người đến tìm tôi tâm sự, đi qua trên tôi bằng những bước chân gây buốt nhói như thể đang vượt qua một cây cầu, rồi không bao giờ quay trở lại. Suốt thời gian điều đó diễn ra, tôi ngậm miệng, chẳng nói lấy một lời. Đó là cách tôi nhớ đến những năm cuối của tuổi hai mươi.

Giờ đây tôi muốn kể chuyện.

Vẫn chưa có bất kỳ vấn đề nào được giải quyết, và có lẽ vẫn sẽ nguyên như thế khi câu chuyện này kết thúc. Rốt lại, viết không phải là phương cách để tự chữa lành chính mình, mà chẳng hơn gì ngoài những cố gắng nhỏ nhoi trong nỗ lực tự chữa lành đó.

Tuy vậy, thật khó khăn để có thể kể hết sự thật. Tôi càng cố gắng thành thật, những câu từ chính xác lại càng lặn sâu hơn vào trong bóng tôi.

Tôi không có ý biện hộ. Ít ra, những điều tôi kể ra đây là những điều tốt nhất tồn tại trong tôi lúc này. Không thêm bớt điều gì. Cho dù thế, tôi cũng đã nghĩ như vầy. Nếu mọi chuyện đều thuận lợi, thì tương lai có lẽ tôi sẽ có thể tìm thấy một tôi đã được chữa lành, sau mấy năm hay mấy chục năm không biết nữa. Lúc đó những con voi sẽ lại quay về đồng cỏ, và có lẽ tôi sẽ bắt đầu kể về thế giới này với những ngôn từ đẹp đẽ hơn nhiều.

⃰⃰

Tôi đã học rất nhiều từ Derek Heartfield về những câu văn. Lẽ ra tôi phải nói rằng hầu như tất cả tôi đều học được từ ông. Đáng tiếc, Heartfield là một nhà văn thất bại. Nếu đã đọc tác phẩm của ông, hẳn bạn sẽ hiểu. Câu văn khó hiểu, cốt truyện rối rắm, và chủ đề ấu trĩ. Tuy nhiên ông là một trong số ít nhà văn vĩ đại có khả năng đấu tranh bằng cách biến ngôn từ thành vũ khí. Tôi nghĩ, nếu so sánh với những nhà văn cùng thời như Hemingwayd và Fitzgerald, phong cách chủ nghĩa tiền vệ của Heartfield hoàn toàn không hề thua kém. Đáng tiếc, đến cuối đời Heartfield cũng chẳng thể khẳng định chắc chắn đối thủ mình chiến đấu là ai. Cuối cùng, ông thất bại.

Ông đã tiếp tục cuộc chiến thất bại của mình suốt tám năm hai tháng trước khi tìm đến cái chết. Vào một sáng Chúa nhật trong lành của tháng Sáu năm 1938, ông nhảy từ đỉnh tòa nhà Empire State với chân dung Hitler ôm trong tay phải và chiếc ô mở bung bên tay trái. Không khác gì lúc sống, cái chết của ông cũng chẳng là vấn đề gì hệ trọng.
Quyển sách đầu tiên của Heartfield – chưa từng được tái bản – tôi có được lần đầu là vào một mùa hè oi bức khi đang học lớp 9, chính xác lúc đó tôi đang đau đớn với căn bệnh da liễu trầm trọng ngay vùng bẹn. Ba năm sau khi cho tôi quyển sách đó, cậu tôi mắc bệnh ung thư ruột, cả người như bị cắt lát. Với lỗ ra và lỗ vào trên người chèn đặc dây nhợ, ông mất trong đau đớn. Lần cuối tôi gặp ông, cơ thể ông nhăn lại có màu đỏ bầm, trông như một con khỉ tinh quái.

⃰⃰

Tôi có ba ông cậu, một người chết ở ngoại ô Thượng Hải. Ông mất vì giẫm phải địa lôi do chính mình cài hai ngày sau khi chiến tranh kết thúc. Ông cậu thứ ba, người duy nhất còn sót lại, trở thành ảo thuật gia và đi biểu diễn quanh các suối nước nóng khắp nước.

⃰⃰

Heartfield từng viết về một câu văn hay như sau. « Viết văn không khác gì việc xác định khoảng cách giữa bản thân với mọi điều quanh mình. Do đó, điều cần thiết không phải cảm xúc mà là thước đo. » (What’s So Bad About Feeling Good? 1936)

Vào năm tổng thống Kennedy mất, tôi bắt đầu thận trọng trải tầm nhìn ra quanh mình với chiếc thước đo bên tay. Kể từ đó, đã mười lăm năm trôi qua. Trong mười lăm năm, tôi thật sự đã vứt hết cả mọi thứ. Chẳng khác gì chiếc máy bay hỏng máy, hàng hóa trong cabin bị vứt đi để giảm tải, kế đó là ghế ngồi, và cuối cùng là nữ tiếp viên xinh đẹp. Suốt mười lăm năm tôi đã vứt tất cả mọi thứ tồn tại trong tôi, và đổi lại là sự trống rỗng nơi đó.
Tôi không chắc hành động đó đúng hay sai. Dù thật sự cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tôi sợ hãi khi nghĩ đến những gì còn sót lại nơi mình khi tuổi già và cái chết đón đợi. Có lẽ đến một mẫu xương cũng chẳng còn sau khi tôi được hỏa thiêu.

« Kẻ ác tâm sẽ chỉ gặp toàn ác mộng. Nếu tâm càng thêm ác độc, đến giấc mơ cũng chẳng còn. » Ngoại tôi đã mất luôn nói vậy.

Vào đêm ngoại tôi mất, điều đầu tiên tôi làm là đưa tay chậm chạp vuốt mắt bà nhắm lại. Ngay lúc đó, cơn mộng bà mãi ôm ấp suốt bảy mươi chín năm trời cũng dần ta biến như cơn mưa mùa hạ oi nồng rơi trên con đường rải nhựa. Kế đó, chẳng còn gì sót lại.

⃰⃰⃰

Một lần nữa tôi sẽ viết về những câu văn. Lần cuối cùng.

Với tôi, viết văn là một công việc đau khổ. Tôi đã từng không viết một dòng nào suốt một tháng trời. Tôi cũng đã từng viết mê mãi suốt ba ngày ba đêm, nhưng đến cuối mọi câu chữ đều vô nghĩa.

Mặc dù vậy, viết văn cũng là một công việc hạnh phúc. Vì gán nghĩa cho những câu từ có cảm giác dễ dàng hơn nếu so với những khó khăn phải sống.

Tôi hiểu ra thực tế đó khi khoảng mười mấy tuổi. Lúc đó, tôi đã hoảng sợ đến nỗi không thể mở miệng nói câu nào trong suốt một tuần. Giả như có thái độ thông minh hơn một chút thôi, tôi đã có thể xếp đặt thế giới theo ý mình thích, tất cả mọi giá trị sẽ thay đổi, và thời gian cũng sẽ đổi dòng… Tôi có cảm giác như vậy.

Đáng tiếc, tôi chỉ mới hiểu rằng đó là một cái bẫy khi thời gian trôi đã đủ lâu. Tôi gạch một đường ngay giữa quyển sổ tay của mình, phía trái tôi ghi ra tất cả những gì mình có được vào thời điểm đó, trong khi phía phải tôi ghi ra tất cả những điều đã biến mất khỏi mình. Những thứ đã biến mất, những thứ tôi đã chà đạp, những thứ tôi chỉ vậy mà vứt bỏ, những thứ tôi đã hy sinh, những thứ tôi đã phản bội… tôi đã chẳng thể ghi ra tất cả đến hết.

Giữa một điều chúng ta nỗ lực thấu hiểu và một điều chúng ta thực tế thấu hiểu luôn được chia cách bởi cái hố thẳm sâu. Không cần biết thước đo chúng ta mang theo dài đến đâu, chúng ta cũng không thể đo được độ sâu của nó. Điều tôi viết ra đây đơn thuần chỉ là một danh sách. Không phải tiểu thuyết, không phải văn chương, cũng không phải nghệ thuật. Chỉ là một chương ghi chép với đường kẻ chia ngang trang giấy. Trong khi đó, thông điệp nó mang đến có lẽ rất ít.

Nếu hứng thú với nghệ thuật hay văn chương, tốt hơn bạn nên đọc các tác phẩm của người Hy Lạp. Vì hệ thống nô dịch rất cần thiết để tạo ra nghệ thuật chân chính. Đó là điều đã diễn ra vào thời Hy Lạp cổ, người nô lệ đóng thuế ruộng đất, chế biến thức ăn, chèo thuyền, trong khi cư dân thành phố đẫm mình trong việc sáng tác thơ ca dưới ánh dương Địa Trung Hải và chắp nối những con tính. Đó được gọi là nghệ thuật.

Những câu văn tôi có thể viết chỉ giới hạn đến đó, chẳng khác gì một người chà rửa tủ lạnh trong bếp vào lúc 03.00 sớm. Vậy đấy, người đó chính là tôi.



2.

Câu chuyện này bắt đầu ngày 8 tháng 8 năm 1970, và kết thúc 18 ngày sau đó, tức là ngày 26 tháng 8 cùng năm.



3.

« Tốt nhất là quẳng hết cả bọn nhà giàu ra biển! »

Trong lúc hai tay đặt trên quầy, Chuột quay sang phía tôi với gương mặt u ám rồi chửi rủa như vậy.

Cũng có thể Chuột  đang chửi chiếc máy pha café đặt phía sau tôi. Vì tôi và Chuột đang ngồi cạnh nhau bên quầy bar, thực tế cậu ta không cần phải quay sang phía tôi để chửi rủa. Nhưng nếu đã lớn tiếng, như mọi khi Chuột sẽ lại nốc bia với nét mặt thỏa mãn.

Vả lại cũng chẳng ai quanh chúng tôi thấy phiền giọng lanh lảnh của Chuột. Cái quán bar nhỏ chật kín khách, và mọi người đều nói chuyện to tiếng. Không khí nơi đây chẳng khác gì trên một con tàu sắp sửa đắm đến nơi.

« Thứ giòi bọ! » Chuột lầm bầm lắc đầu như thể cảm thấy rất giận dữ.

« Chúng nó chẳng biết làm cái đếch gì cả. Cứ trông bộ mặt ra vẻ ta đây giàu có của chúng là đã thấy tởm. »

Tôi chỉ gật đầu trong lúc dán chặt môi vào miệng chai bia mỏng tanh. Sau đó Chuột không nói thêm gì nữa. Vừa xoay lật bàn tay đặt trên mặt quầy, như thể đang sưởi ấm những ngón tay gầy nhom của mình bên đám lửa, Chuột vừa chăm chú ngắm nhìn chúng. Còn tôi cứ để mặc và ngước nhìn lên trần nhà. Chuột sẽ chẳng tiếp tục câu chuyện nếu chưa lần lượt soi xét đủ hết mười đầu ngón tay của mình. Luôn là vậy.

Suốt mùa hè oi bức, tôi và Chuột, như bị ám, đã uống hết số bia tương đương thể tích một hồ bơi dài hai mươi mét, và vứt số vỏ đậu phộng dày đến năm xen-ti-mét trên mặt sàn quán Jay’s Bar. Mùa hè năm đó quả thật buồn chán và có lẽ sẽ chẳng trôi qua nếu như chúng tôi không làm những điều tương tự.

Bên quầy quán Jay’s Bar có treo một bức tranh khắc gỗ đã ám màu khói thuốc. Khi thấy đã quá tẻ ngắt, tôi nhìn mãi bức tranh đó suốt hàng giờ liền quên cả ăn. Trong mắt tôi, bức tranh có đường nét như những bức vẽ thường dùng trong các trắc nghiệm Rorschach  đó trông như hai con khỉ màu xanh lá đang ngồi đối diện và ném hai quả bóng tennis gần như xẹp lép vào nhau.

Khi tôi nói điều đó với Jay, người pha chế, anh ta thoáng nhìn bức tranh đó một chốc rồi hờ hững bảo, « Cũng giống đấy. »

« Thế thì diễn đạt cái gì nhỉ? » tôi hỏi.

« Con khỉ bên trái là cậu, còn con khỉ bên phải là tôi. Nếu tôi ném chai bia về phía cậu, thì cậu sẽ ném tiền thanh toán cho tôi. »

Tôi uống bia của mình với cảm giác thán phục.

« Thật tởm. »

Chuột lặp lại những từ ban nãy khi đã kiểm tra xong các ngón tay của mình từng ngón một.

Đó không phải lần đầu tiên Chuột thóa mạ người giàu. Quả thật cậu ta rất ghét người giàu. Mặc dù gia đình Chuột cũng phải nói là khá giàu, mỗi lần tôi nhắc đến điều đó Chuột sẽ cãi lại, « Đó không phải lỗi của tớ. » Có lúc, ừ, phần lớn là khi đã uống quá nhiều bia, tôi bảo, « Không đâu. Đó là lỗi của cậu. » Sau khi nói vậy hiển nhiên tôi không thấy thoải mái cho lắm, vì thật ra Chuột cũng có lý.

« Theo cậu, sao tớ lại ghét người giàu đến vậy? »

Đêm đó, Chuột nói tiếp lời mình. Đó là lần đầu câu chuyện của chúng tôi đi tiếp đến tận đấy.

Tôi lắc đầu tỏ ý không biết.

« Tớ nói rõ nhá, tớ ghét bọn nhà giàu vì chúng không suy nghĩ gì cả. Giả không có đèn pin hay thước kẻ, chắc chúng cũng chẳng thể tự gãi lưng mình. »

‘Tớ nói rõ nhá.’ Đó là cách nói đặc trưng của Chuột.

« Vậy cũng được sao? »

« Ừ. Chúng chẳng bao giờ suy nghĩ điều gì quan trọng cả. Chúng chỉ giả vờ nghĩ ngợi… Theo cậu, sao chúng lại như vậy? »

« Chẳng biết. »

« Vì chúng chẳng cần phải suy nghĩ. Để làm giàu, quả thật người ta cần động não đôi chút, nhưng để tiếp tục giàu có, người ta không cần làm gì cả. Cũng như vệ tinh nhân tạo chẳng cần dùng đến nhiên liệu. Chúng chỉ cần xoay quanh mãi một chỗ là đủ. Nhưng tớ thì không như vậy, cậu cũng khác. Chúng ta cần phải tiếp tục suy nghĩ để có thể sống. Nghĩ từ việc thời tiết ngày mai thế nào cho đến kích thước nắp chặn lỗ thoát nước bồn tắm. Đúng không? »

« Ừ, » tôi nói.

« Đúng là vậy mà. »

Sau khi nói hết những gì muốn nói, Chuột mò tìm khăn giấy trong túi áo rồi xì mũi thật mạnh cứ như buồn chán lắm. Tôi chẳng thể biết được Chuột nghiêm túc đến mức nào khi nói những lời đó.

« Gì thì cuối cùng mọi người đều sẽ chết cả, » tôi nói ý dò xét.

« Cái đó thì hẳn rồi. Một lúc nào đó mọi người đều phải chết. Nhưng mà họ đã phải sống ít nhất năm mươi năm cho đến lúc đó. Tớ nói rõ nhá, sống năm mươi năm suy nghĩ đủ điều thì mệt nhọc hơn nhiều so với sống suốt năm ngàn năm chẳng nghĩ ngợi gì cả. Đúng không? »

Điều đó thì đúng thật.



4.

Tôi gặp Chuột vào mùa thu ba năm trước. Thời gian đó là năm đầu đại học, và chúng tôi đang say bí tỉ. Vì vậy, tôi hoàn toàn chẳng nhớ tình huống nào khiến chúng tôi cùng ngồi lên chiếc Fiat 500 màu đen của Chuột vào lúc 04.00 hơn buổi sớm. Có lẽ do cùng đường về.

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

4.

Tôi gặp Chuột vào mùa thu ba năm trước. Thời gian đó là năm đầu đại học, và chúng tôi đang say bí tỉ. Vì vậy, tôi hoàn toàn chẳng nhớ tình huống nào khiến chúng tôi cùng ngồi lên chiếc Fiat 500 màu đen của Chuột vào lúc 04.00 hơn buổi sớm. Có lẽ do cùng đường về.

Quan trọng là lúc đó chúng tôi đã say thật sự, tệ hơn nữa, kim đo tốc độ chỉ đến con số 80 km. Vì lẽ đó, chúng tôi lái xe lũi vào hàng rào công viên, cán nát dãy hoa đỗ quyên, và theo tôi nhớ cũng đã đâm vào một trụ đá. Vì chúng tôi chẳng xây xát một chút nào, nên không có từ nào chính xác hơn để miêu tả tình trạng của chúng tôi là tốt số.

Khi cơn chấn động đã qua, tôi đạp tung cánh cửa xe móp méo bước ra ngoài. Mui chiếc Fiat bật văng tới trước chuồng khỉ cách khoảng 10 mét về phía trước, còn mũi xe thì đã lõm vào theo dáng trụ đá. Mấy con khỉ la thét tức giận vì bị đánh thức mạnh bạo.

Tay vẫn nắm chặt vô-lăng, Chuột cúi gập người, nhưng cậu ta không bị thương. Cậu ta chỉ ói hết miếng pizza vừa ăn một giờ trước đó lên bảng điều khiển. Tôi trườn lên trên nóc xe rồi ngó nhìn ghế lái qua sunroof.

« Cậu không sao đấy chứ? »

« Ừ, nhưng chắc tớ uống nhiều quá. Ói gần hết cả rồi. »

« Bước ra được không? »

« Kéo giúp tớ với! »

Chuột tắt máy xe, nhét gói thuốc đặt trên bảng điều khiển vào trong túi, rồi chậm chạp nắm lấy tay tôi trườn lên nóc xe. Ngồi cạnh nhau trên nóc chiếc Fiat, chúng tôi ngước nhìn bầu trời đã bắt đầu rạng, và đốt vài điếu thuốc mà chẳng nói một lời nào. Chẳng biết sao tôi lại nhớ đến cảnh phim chiến tranh có Richard Burton thủ vai . Tôi không biết Chuột đang nghĩ điều gì.



« Này, bọn mình may mắn nhỉ, » năm phút sau Chuột nói vậy. « Nhìn xem. Bọn mình chẳng xây xát chút nào cả. Tin nổi không? »

Tôi gật đầu. « Nhưng xe thì nát bét rồi. »

« Nghĩ làm quái gì. Xe có thể mua, nhưng vận may thì có tiền cũng không mua được. »

Tôi nhìn mặt Chuột, sững sờ. « Cậu giàu lắm à? »

« Hình như vậy. »

« Nếu vậy thì tốt rồi. »

Chuột không đáp trả, nhưng cậu ta lắc đầu đôi lần cứ như không vừa ý. « Nhưng điều quan trọng là chúng ta may mắn. »

« Ừ, đúng đấy. »

Chuột dụi tắt điếu thuốc dưới đế giày tennis của mình, rồi búng mẩu thuốc về phía chuồng khỉ.

« Này, bọn mình làm thành một đội thì thế nào? Hẳn mọi việc sẽ suôn sẽ lắm. »

« Trước hết, chúng ta sẽ làm gì? »

« Uống bia thôi. »

Chúng tôi mua nửa tá bia từ máy bán hàng tự động đặt cách đó không xa, đi về phía biển, nằm dài trên bãi cát, uống hết tất cả số bia, rồi ngắm biển. Tiết trời hôm đó thật trong lành.

« Gọi tớ là Chuột nghen, » cậu ta nói.

« Sao lại gọi vậy? »

« Tớ quên rồi. Thì cũng đã khá lâu. Lúc đầu nghe gọi vậy cũng thấy bực, nhưng giờ thì chẳng sao nữa. Quen rồi. »

Chúng tôi ném hết số lon bia rỗng xuống biển, rồi nằm dựa vào con đê chắn sóng chúng tôi lấy áo khoác duffle  chùm kín đầu và ngủ khoảng một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy có một sức sống ngập tràn cơ thể. Một cảm giác kỳ lạ.

« Tớ thấy mình có thể chạy bộ suốt một trăm kí-lô-mét đấy, » tôi bảo.

« Tớ cũng vậy, » Chuột nói.

Tuy nhiên thực tế điều chúng tôi buộc phải làm là đóng phạt cho tòa thị chính chỗ phí tu sửa công viên cũng như vườn hoa trong suốt ba năm.



5.

Chuột không bao giờ đọc sách. Tôi chưa từng thấy cậu ta đọc một chữ nào ngoài báo thể thao và thư tín. Cứ khi tôi đọc sách để giết thời gian, cậu ta lại liếc nhìn quyển sách như thể vật gì quý hiếm lắm, chẳng khác nào con ruồi ngắm cái vỉ đập ruồi.

"Sao cậu đọc sách mãi vậy?"

"Sao cậu uống bia mãi vậy?"

Vừa ăn gỏi cá thu luân phiên với sa-lát trộn, tôi vừa hỏi lại mà không quay nhìn Chuột. Chuột ngẫm nghĩ về điều đó, và năm phút sau cậu ta mở miệng.

"Mặt tốt của bia, thứ chất lỏng đó sẽ hóa thành nước tiểu và từ cơ thể thải hết ra ngoài. One out, first base, double play . Không còn sót lại một chút gì," Chuột trả lời trong lúc nhìn tôi vẫn đang mãi ăn.

"Sao cậu chỉ đọc sách không vậy?"

Sau khi chiêu món gỏi cá thu bằng một ngụm bia, tôi dọn đĩa, với lấy quyển sách nhan đề Sentimental Education đặt bên cạnh, rồi lật mở vài trang.

"Bởi lẽ Flaubert  đã chết."

"Cậu không đọc sách của những tác giả vẫn còn sống sao?"

"Tác phẩm của tác giả còn sống không đáng đọc."

"Sao lại thế?"

"Vì tớ cảm thấy mình có thể tha thứ nhiều điều cho người đã chết."

Tôi trả lời như vậy trong lúc xem Route 66  trên chiếc tivi di động đặt giữa quầy. Chuột lại một lần nữa ngẫm nghĩ.

"Này, còn với người thường thì sao? Cậu có thể tha thứ mọi điều cho họ không?

"Sao nhỉ. Tớ chưa từng suy nghĩ nghiêm túc đến thế. Nhưng nếu đã ở thế cùng đường, có lẽ tớ sẽ có thể tha thứ cho họ. Cũng có khả năng tớ sẽ không thể tha thứ cho họ."

Jay tiến lại gần rồi đặt hai chai bia mới trước mặt chúng tôi.

"Cậu sẽ làm gì nếu không thể tha thứ cho họ?"

"Tớ sẽ ôm gối đi ngủ."

Chuột lắc đầu vẻ bối rối.

"Lạ thật. Tớ chẳng hiểu gì cả," Chuột lầm bầm.

Tôi rót bia vào ly của Chuột, trong lúc cậu ta lại cúi gập người thoáng nghĩ ngợi.

"Lần cuối tớ đọc sách là mùa hè năm ngoái," Chuột hồi tưởng. "Tớ quên mất tựa đề và tên tác giả rồi. Tớ cũng chẳng nhớ vì sao mình lại đọc cuốn sách ấy. Cái chính, đó là một quyển tiểu thuyết của một nữ tác giả. Nhân vật chính là một phụ nữ chỉ mới ba mươi tuổi và là một nhà thiết kế thời trang danh tiếng. Nhưng cô ta cứ khăng khăng rằng mình mắc một căn bệnh vô phương cứu chữa."

"Bệnh gì vậy?"

"Tớ quên rồi. Ung thư hay đại loại vậy. Còn căn bệnh vô phương cứu chữa nào khác ngoài ung thư sao? Thế rồi cô ta đi nghỉ hè tại một bãi biển, và thủ dâm từ đầu chí cuối. Cô ta thủ dâm ở đủ mọi nơi, ví dụ như trong bồn tắm, trong rừng, trên giường, và giữa biển.

"Ở giữa biển?"

"Ừ. Tin được không? Sao phải viết mấy thứ đó vào trong tiểu thuyết cơ chứ? Còn bao nhiêu thứ khác có thể viết được cơ mà?"

"Chẳng biết nữa."

"Thứ tiểu thuyết đó thật chẳng đáng. Đọc cứ muốn mửa."

Tôi gật đầu.

"Phải tớ, tớ sẽ viết một tiểu thuyết hoàn toàn khác biệt."

"Ví dụ như?"

Chuột suy nghĩ trong lúc đưa ngón tay vân vê mép ly bia.

"Thế này thì sao? Tớ bị đắm tàu ngay giữa Thái Bình Dương. Bám vào phao cứu sinh, một mình tớ vừa trôi nổi bập bềnh giữa biển đêm vừa ngắm sao trời. Một đêm yên bình và trong lành. Rồi từ phía đối diện, một người phụ nữ trẻ cũng bám vào áo phao bơi về phía tớ."

"Phụ nữ đẹp?"

"Thì vậy."

Tôi hớp một ngụm bia rồi lắc đầu.

"Nghe ngớ ngẩn sao ấy?"

"Nghe hết cái đã! Sau đó, hai người bọn tớ vừa trôi giữa biển vừa nói đủ thứ chuyện. Chẳng hạn như, đến từ đâu, muốn đi đâu, sở thích, số phụ nữ tớ đã lên giường, chương trình TV, giấc mơ đã thấy đêm qua, ừ, mấy chuyện phiếm đại loại vậy. Rồi bọn tớ uống bia với nhau."

"Khoan, chờ đã. Bia đâu mà cậu uống?"

Chuột thoáng suy nghĩ.

"Bia trôi giữa biển. Mấy lon bia đã lăn ra khỏi căng-tin tàu. Cùng với mấy hộp cá mồi. Đủ chưa?"

"Được rồi."

"Dần dà, bình minh ló dạng. 'Sau này, chúng ta sẽ làm gì đây?' người phụ nữ hỏi tớ. 'Tôi sẽ thử bơi về phía đảo,' người phụ nữ nói tiếp. 'Nhưng chưa chắc có hòn đảo nào quanh đây. Tốt hơn chúng ta cứ vừa trôi ở đây vừa uống bia, chắc rồi sẽ có máy bay đến cứu nạn thôi,' tớ nói thế. Nhưng người phụ nữ đó vẫn cứ bơi đi một mình."

Chuột thở dài một thoáng rồi uống bia.

"Người phụ nữ đó bơi suốt hai ngày hai đêm đến cuối cùng cũng tới được một hòn đảo. Trong khi đó, tớ đang trong tình trạng say khước đã được một máy bay giải cứu. Vài năm sau họ tình cờ gặp lại nhau trong một quán bar nhỏ ở vùng Yamanote."

"Rồi họ lại uống bia cùng nhau đúng không?"

"Chuyện tớ viết không buồn chứ?"

"Chẳng biết," tôi nói.



6.

Có hai điểm dị biệt trong tiểu thuyết của Chuột. Trước hết là truyện không có cảnh làm tình, kế đó là không một nhân vật nào chết cả. Lý do là dù không đả động đến, con người chắc chắn rồi sẽ phải chết và đàn ông chắc chắn sẽ phải ngủ với phụ nữ. Thực tế là vậy.



"Theo anh, tôi có sai lầm không?" người phụ nữ đó hỏi.

Chuột hớp ngụm bia rồi chầm chậm lắc đầu. "Tôi nói rõ nhá, mọi người đều sai lầm."

"Sao anh lại nghĩ vậy?"

"Hmm," Chuột lẩm bẩm rồi liếm môi trên của mình. Cậu ta không trả lời.

"Tôi bơi gần chết tới đảo đến nỗi tay như muốn long cả ra. Thật sự mệt mỏi và tôi đã nghĩ mình sẽ chết. Lúc đó tôi đã nhiều lần nghĩ thế này. Có lẽ tôi đã sai và anh đúng. Nhưng sao anh cứ trôi trên biển không làm gì cả, trong khi tôi lại phải chịu đựng như thế? Tôi đã nghĩ vậy."

Sau khi nói thế, người phụ nữ lặng lẽ cười rồi đưa tay ấn nhẹ khóe mắt như thấy mỏi mệt. Trong khi đó, Chuột lúng túng mò tìm thứ gì trong túi chẳng rõ. Sau ba năm cai thuốc, đột nhiên cậu ta lại muốn hút.

"Cô có nghĩ đáng ra tôi phải chết?"

"Có, một ít."

"Thật chỉ một ít?"

"Tôi quên rồi."

Họ im lặng một lúc. Rồi Chuột thấy cần phải nói thêm một điều gì đó.

"Này, con người sinh ra đã không bình đẳng."

"Ai nói vậy?

“John F. Kennedy.”



7.

Lúc nhỏ, tôi là một đứa trẻ rất kiệm lời. Vì lo lắng, ba mẹ đã mang tôi đến nhà một người quen là bác sĩ tâm thần.

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

7.

Lúc nhỏ, tôi là một đứa trẻ rất kiệm lời. Vì lo lắng, ba mẹ đã mang tôi đến nhà một người quen là bác sĩ tâm thần.

Nhà vị bác sĩ đó nằm trên một ngọn đồi, từ đây có thể trông thấy biển. Tôi cứ ngồi vậy trên chiếc ghế sofa đặt giữa phòng khách ngập tràn ánh mặt trời, một phụ nữ trung niên có vóc người tao nhã đưa tôi ly orange juice lạnh cùng hai khoanh donat. Tôi cẩn thận ăn nửa khoanh donat để không phải rơi vãi bột đường lên đùi, rồi uống hết ly orange juice.

"Uống nữa không?" vị bác sĩ hỏi. Tôi lắc đầu. Chúng tôi đang ngồi đối diện nhau. Trên bức tường trước mặt tôi có treo bức chân dung Mozart với đôi mắt mở trừng đầy nét thù hằn cứ như một chú chuột sợ hãi.

"Thuở trước, có một chú dê núi tốt bụng."

"Chú dê núi luôn đeo trên cổ một chiếc đồng hồ vàng rất nặng và đi khắp nơi với hơi thở mệt nhọc. Chiếc đồng hồ vàng đó không chỉ rất nặng, mà còn đã hỏng và những chiếc kim không còn chạy nữa. Một ngày nọ, bạn dê núi là một chú thỏ nói thể này. "Này, dê núi, sao cậu cứ mang mãi chiếc đồng hồ đó? Không chỉ nặng, mà cũng đã hỏng mất rồi phải không?' 'Đúng là nặng thật,' dê núi đáp. "Nhưng tới đã quen rồi mặc dù chiếc đồng vừa nặng lại vừa đã hỏng."

Sau khi nói vậy, vị bác sĩ uống ly orange juice của mình rồi nhăn mặt nhìn tôi. Tôi chỉ im lặng đợi kể tiếp câu chuyện.

"Đến ngày sinh nhật dê núi. Chú thỏ tặng dê núi một chiếc hộp nhỏ có đính nơ thật đẹp. Món quà đó có vẻ là một chiếc đồng hồ mới chạy đúng giờ, nhẹ và lấp lánh. Dê núi thấy rất vui. Chú ta đeo chiếc đồng hồ mới vào cổ rồi đi khắp nơi để khoe với muôn thú."

Câu chuyện đột ngột kết thúc tại đó.

"Cháu là chú dê núi, ta là chú thỏ, và chiếc đồng hồ đó chính là trái tim cháu."

Tôi có cảm giác mình đã bị xỏ mũi, đành buộc phải gật đầu.

Mỗi tuần một lần, chính xác là chiều Chúa nhật, tôi đón xe lửa rồi đổi sang xe buýt đến nhà vị bác sĩ đó. Vừa ăn coffee roll, bánh táo, pannekoek , haycroissant phết mật ong, tôi vừa chấp nhận trị liệu. Sau một năm, bởi những thức quà đó tôi cũng đã phải đến thăm một vị nha sĩ.  

"Văn minh là thông tin," vị bác sĩ nói vậy. "Nếu cháu không thể diễn đạt một điều gì đó, nghĩa là điều đó chưa hề tồn tại. Hiểu chứ? Số không to tướng! Chẳng hạn bụng cháu đói. Cháu chỉ cần nói, 'bụng cháu đó.' Có vậy, ta sẽ cho cháu bánh. Ăn đi nào." Tôi nhận lấy một miếng bánh. "Nếu cháu không nói gì cả, thì sẽ không có bánh để ăn." Vẻ tinh quái, vị bác sĩ đem cất đĩa bánh xuống dưới bàn. "Số không to tướng! Hiểu chứ? Cháu không muốn nói chuyện. Nhưng bụng cháu đó. Rồi cháu muốn nói điều đó mà không phải dùng đến ngôn từ. Cứ gọi là trò ngôn ngữ cử chỉ. Thử làm xem."

Tôi ôm bụng với gương mặt đau khổ. Vị bác sĩ bật cười. "Đó là rối loạn tiêu hóa đấy chứ."

Rối loạn tiêu hóa…

Kế đến, chúng tôi chơi trò 'nói tự do'.

"Thế kể xem cháu biết gì về con mèo."

Tôi xoay xoay đầu, vờ suy nghĩ.

"Cháu có thể liệt kê bất cứ thứ gì cháu nhớ."

"Động vật có bốn chân."

"Voi cũng có bốn chân."

"Nhỏ hơn nhiều."

"Gì nữa?"

"Được nuôi trong nhà. Nếu hứng, động vật đó có thể giết chuột."

"Nó ăn gì nào?"

"Cá."

"Xúc xích thì sao?"

"Ăn xúc xích luôn."

Vậy đấy.

Vị bác sĩ đó nói đúng. Văn minh là thông tin. Khi một điều đáng lẽ phải được nói ra và được truyền đạt đã không còn, thì nền văn minh cũng kết thúc. Kkkrét... OFF.



Thật khó tin, nhưng vào một mùa thu tôi bước qua tuổi mười bốn, đột nhiên tôi bắt đầu nói huyên thuyên chắng khác gì con đập vỡ tràn. Tôi không nhớ mình đã nói những gì khi đó, nhưng tôi đã mãi huyên thuyên không ngừng suốt ba tháng như cố gắng bù đắp lại khoảng trống suốt mười bốn năm trời. Đến giữa tháng Bảy, khi đã thôi huyên thuyên, tôi sốt cao 40°C đến nỗi phải nghỉ học mất ba ngày. Cuối cùng khi đã hạ sốt, tôi trở thành một thanh niên bình thường, không im lặng cũng chẳng nói nhiều.



8.

Có lẽ vì khô cổ, tôi tỉnh giấc lúc 06:00 kém. Nếu phải thức giấc ở nhà người khác, tôi luôn thấy như thân xác này đã bị một linh hồn khác chiếm ngụ. Nỗ lực hết sức cuối cùng tôi cũng đứng dậy được khỏi chiếc giường ngủ nhỏ hẹp, uống vài ly nước máy rót từ chiếc bồn rửa chén giản đơn đặt cạnh cửa như chú ngựa đang cơn khát, sau đó quay trở lại phòng ngủ.

Biển thấp thoáng ngoài ô cửa để mở. Sóng biển rầm rì phản chiếu ánh dương lấp lánh vừa nhú trên cao, và nếu nheo mắt nhìn kỹ, tôi trông thấy vài chiếc thuyền xỉn màu lờ lửng trôi đi. Có vẻ sẽ là một ngày dài nóng bức. Những ngôi nhà xung quanh vẫn còn đang say ngủ, chỉ nghe thấy mỗi tiếng đường ray xe lửa rít lên mỗi lúc hay giai điệu lờ mờ bài nhạc thể dục buổi sáng từ radio.

Vẫn trong tình trạng lõa thể, tôi tựa vào lưng giường. Sau khi châm điếu thuốc, tôi ngắm cô gái đang nằm ngủ cạnh bên. Từ ô cửa mở ra phía nam, ánh mặt trời rọi xuyên vào bao phủ cơ thể cô. Cô gái say ngủ dưới chiếc chăn thô dày che kín cơ thể đến bàn chân. Đôi lúc cô thở vội, khiến bộ ngực căng tròn phập phồng chuyển động lên xuống. Cơ thể thường xuyên được tắm nắng, và cùng thời gian trôi, phần cơ thể rám nắng bắt đầu tối màu, trong khi phần da thường được lớp đồ bơi che kín trắng đến nỗi trông như đang thối rữa.

Hút xong điếu thuốc, tôi thử nhớ lại tên cô gái trong suốt khoảng mười phút, nhưng chỉ vô ích. Vả chăng tôi cũng chẳng nhớ liệu mình có biết tên cô ta hay không. Tôi bỏ cuộc, rồi lại ngắm nhìn cơ thể cô gái một lần nữa. Có vẻ cô ta vẫn chưa đến hai mươi, và cơ thể khá gầy gò. Tôi duỗi thẳng bàn tay rồi thử đo cơ thể cô gái từ phía đầu. Tám gang tay, và phần gót chân dư ra độ một ngón tay cái. Cô ta cao khoảng 158 cm.

Phía dưới ngực phải có đốm bẩn trông như vết nước xốt rơi đổ to cỡ đồng bạc mười yên, trong khi ở phần hạ bộ, lớp lông mu cụt ngủn mọc thẳng hàng như loài thủy tảo dưới con sông nhỏ sau cơn lũ. Tệ hơn nữa, bàn tay phải của cô chỉ còn bốn ngón.



9.

Ba tiếng sau cô gái mới tỉnh giấc. Cô mất năm phút để nắm bắt lại chuỗi sự kiện. Trong lúc việc đó diễn ra, tôi khoanh tay chăm chú nhìn về phía đám mây dày treo trên bầu trời. Đám mây chuyển dạng rồi trôi về phía đông

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

9.

Ba tiếng sau cô gái mới tỉnh giấc. Cô mất năm phút để nắm bắt lại chuỗi sự kiện. Trong lúc việc đó diễn ra, tôi khoanh tay chăm chú nhìn về phía đám mây dày treo trên bầu trời. Đám mây chuyển dạng rồi trôi về phía đông

Vài khắc sau, khi tôi quay nhìn, cô gái đã bọc kín mình trong chăn đến tận cổ, cố nén vị whiskey còn sót lại trong dạ dày cô nhìn tôi vô cảm.

"Anh là ai?"

"Cô không nhớ sao?"

Cô lắc đầu một cái. Tôi châm thuốc rồi mời cô một điếu, nhưng cô lờ đi.

"Thử giải thích xem."

"Tôi phải bắt đầu từ đâu đây?"

"Từ đầu đi."

Ngoài việc chẳng rõ bắt đầu từ đâu, tôi cũng chẳng biết phải kể việc đó như thế nào để cô có thể hiểu. Có lẽ sẽ thành công, cũng có lẽ sẽ hoàn toàn thất bại. Sau khi suy nghĩ khoảng mười giây, tôi bắt đầu kể.

"Mặc dù oi bức, hôm đó là một ngày dễ chịu. Tôi đến hồ bơi bơi suốt buổi trưa, sau đó vế nhà đánh một giấc trước bữa tối. Lúc đó khoảng 20.00 giờ. Tôi lái xe ra ngoài đi dạo. Đỗ xe trên con đường ven biển, tôi vừa ngắm biển vừa nghe radio. Đó là điều tôi luôn làm.

Ba mươi phút trôi qua, đột nhiên tôi muốn gặp mặt ai đó. Nếu cứ ngắm biển mãi thường tôi lại muốn gặp ai đó, trái lại nếu cứ mãi nhìn người thường tôi sẽ muốn trông thấy biển. Thật lạ phải không. Vì vậy tôi quyết định đến quán Jay's Bar. Tôi muốn uống bia và có thể sẽ gặp được một người bạn ở đó. Tuy nhiên bạn tôi hình như không đến quán. Cuối cùng tôi quyết định uống bia một mình. Trong một tiếng đồng hồ, tôi đã uống hết ba chai bia."

Tôi ngắt câu chuyện ở đó rồi gạt tàn thuốc vào chiếc gạt tàn.

"Nhân tiện, cô đã đọc quyển A Cat in a Hot Tin Roof  chưa?"

Cô không trả lời câu hỏi, chỉ lặng ngắm trần nhà với cơ thể bọc kín trong chăn trông như con cá nược bị nhấc lên bãi biển. Không quan tâm đến điều đó, tôi tiếp tục câu chuyện.

"Cái chính là tôi luôn nhớ tới câu chuyện đó mỗi lần uống bia một mình. Như thể có tiếng the thé trong đầu ngụ ý rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp hơn thôi. Tuy nhiên hiện thực chẳng đúng như hy vọng. Hơn nữa, thật ra chẳng có thứ gì lên tiếng cả. Vì đã chán chờ đợi, tôi thử gọi điện đến căn hộ người bạn. Tôi định rủ cậu ta đến uống bia cùng. Nhưng người trả lời điện thoại hình như là một phụ nữ. Tôi thấy rất lạ. Cậu ta không phải dạng đàn ông như vậy. Ví dụ, cậu ta cùng lúc dắt năm mươi phụ nữ về phòng và bản thân đang say bí tỉ, thì cậu ta vẫn sẽ tự mình trả lời điện thoại. Hiểu ý tôi không?

Tôi vờ gọi nhầm số rồi xin lỗi trước khi cúp máy. Tôi cảm thấy đôi chút lo lắng sau đó. Nhưng lại không rõ vì lý do gì. Rồi tôi uống thêm một chai bia nữa. Nhưng vẫn chẳng cảm thấy yên lòng hơn chút nào. Tôi cũng biết điều đó thật ngu ngốc. Nhưng quả thật nó là vậy. Uống hết chai bia, tôi gọi Jay, thanh toán, và định về nhà nghe kết quả trận đấu bóng chày trong bản tin thể thao rồi đi ngủ. Jay nói với tôi, "Rửa mặt trước đã." Cứ như anh ta tin rằng, dù uống hết một két bia, tôi vẫn sẽ có thể lái xe miễn là đã rửa mặt trước đấy. Do đó, tôi buộc lòng phải vào toilet để rửa mặt. Nói thật tôi hoàn toàn chẳng có ý định rửa mặt. Tôi chỉ giả vờ thôi. Do đường cống bị nghẹt nên toilet của quán thường ngập nước. Tôi ngại phải vào đó. Tuy nhiên không như mọi khi, đêm qua nước không đọng lại. Nhưng thay vào đó, lại là cô đang nằm sóng soài trên sàn."

Cô gái thở dài rồi nhắm mắt lại.

"Rồi thì?"

"Tôi đỡ cô ra khỏi toilet, rồi đi quanh quán hỏi tất cả mọi người xem liệu có một ai trong số họ biết cô không. Nhưng không một người nào quen cô cả. Rồi tôi và Jay chữa vết thương cho cô.

"Vết thương?"

"Có lẽ cô va đầu vào thứ gì đó lúc ngã. Cơ mà vết thương không nặng lắm đâu."

Cô gật đầu, đưa tay ra khỏi lớp chăn rồi dùng đầu ngón tay chậm rãi ấn vào miệng viết thương trên trán.

"Rồi tôi bàn với Jay xem chúng tôi sẽ phải làm gì. Cuối cùng, chúng tôi quyết định là tôi sẽ phải đánh xe đưa cô về tận nhà. Tôi lấy đồ trong túi xách cô ra, trong đó có ví, móc khóa, và một tấm bưu thiếp được gửi đến địa chỉ nhà cô. Tôi thanh toán tiền nước cho cô rồi đưa cô về đây theo địa chỉ đề trong bưu thiếp, chỉ việc mở cửa thôi. Tôi đã bỏ hóa đơn thanh toán hôm qua vào trong ví của cô."

Cô hít một hơi thở sâu.

"Sao anh lại qua đêm ở đây?"

"Hả?"

"Sao anh không về ngay sau khi đưa tôi tới đây?"

"Tôi có người bạn đột tử vì ngộ độc cồn. Sau khi nốc rất nhiều whiskey, cậu ta nôn mửa rồi đi bộ về nhà. Lúc đó cậu ấy vẫn còn khỏe lắm. Cậu ta đánh răng, thay áo ngủ, rồi lên giường nằm. Hình như đến sáng, cơ thể đã lạnh ngắt. Cậu ta chết. Tang lễ cũng hoành tráng lắm."

"Vậy nên anh trông chừng tôi cả đêm?"

"Đúng ra khoảng 04.00 giờ tôi đã định về. Nhưng tôi ngủ quên. Khi nãy vừa tỉnh giấc tôi cũng đã định về. Nhưng nghĩ rồi lại thôi."

"Tại sao?"

"Vì tôi nghĩ mình cần phải giải thích cho cô rõ chuyện đã xảy ra."

"Anh kỹ tính quá nhỉ."

Tôi chỉ nhún vai đáp lại mấy lời ngụ ý mỉa mai của cô. Rồi tôi lại ngắm mây trời.

"Tôi có nói điều gì không?"

"Một ít."

"Về chuyện gì?"

"Linh tinh thôi. Mà tôi quên cả rồi. Cũng đâu có gì quan trọng."

Cô nhắm mắt, từ trong cổ họng phát ra tiếng hổn hển.

"Tấm bưu thiếp?"

"Tôi bỏ lại vào túi xách rồi."

"Anh đã đọc?"

"Có lẽ là không."

"Tại sao?"

"Tôi chẳng việc gì cần phải đọc cả."

Tôi nói vậy, cảm giác uể oải. Tôi cảm thấy có điều gì đó trong giọng nói cô ta khiến tôi chán ngán. Nhưng bên cạnh đó cũng khiến tôi hoài nhớ đôi chút. Hoài nhớ một điều đã thuộc về quá khứ.

Giả như chúng tôi gặp nhau trong một tình huống thông thường nào đó, có lẽ khoảng thời gian chúng tôi trải qua có thể sẽ ít nhiều vui vẻ hơn lúc này. Tôi có cảm giác như vậy. Tuy nhiên, thực tế là, tôi hoàn toàn chẳng nhớ ý mình là gì khi bảo "gặp gỡ cô gái đó trong một tình huống thông thường."

"Mấy giờ rồi vậy?" cô ta hỏi.

Tôi đứng dậy với cảm thấy ít nhiều nhẹ nhõm. Sau khi nhìn đồng hồ đặt trên bàn, tôi rót nước vào ly rồi quay lại giường ngủ.

"09.00 giờ."

Cô uể oải gật đầu rồi ngồi dậy, tựa vào tường và uống cạn ly nước chỉ trong một hớp.

"Đêm qua tôi uống nhiều lắm sao?"

"Kha khá. Nếu là tôi, hẳn đã chết rồi."

"Tôi cũng cảm thấy muốn chết cho rồi."

Cô lấy gói thuốc đặt dưới gối rồi châm một điếu, phả khói thuốc ra cùng tiếng thở dài, rồi đột ngột ném chiếc bật lửa về phía cảng biển qua ô cửa để mở.

"Lấy giúp tôi bộ đồ."

"Bộ nào đây?"

Ngậm điếu thuốc trên môi, cô lại nhắm mắt một lần nữa.

"Sao cũng được. Làm ơn đi, anh không cần hỏi nhiều làm gì."

Tôi mở tủ đồ đặt bên cạnh giường ngủ, sao một thoáng phân vân, tôi chọn chiếc đầm liền màu xanh không tay rồi đưa nó cho cô. Không mặc đồ lót vào trước, cô luồn chiếc đầm vào đầu, tự kéo sec-mơ-tuya sau lưng, rồi thở dài lần nữa.

"Tôi phải đi đây."

"Đi đâu?"

"Thì đi làm."

Sau khi phun ra mấy từ đó, cô lảo đảo đứng dậy khỏi giường. Tôi vẫn ngồi bên mép giường chăm chú ngắm cô rửa mặt rồi chải tóc mà chẳng có ý định gì cụ thể.

Căn phòng được bày trí gọn gẽ, nhưng chỉ ở mức độ nhất định khiến không khí nơi đây toát lên một vẻ gì cam chịu, làm tôi có cảm giác ít nhiều nặng nề hơn.  

Trong căn phòng rộng chừng mười mét vuông, sau khi chen đầy mọi thứ đồ đạc rẻ tiền, chĩ sót lại một khoảng trống vừa đủ một người nằm. Cô ta đứng đó chải tóc.
 
"Công việc gì vậy?"

"Không liên quan đến anh."

Ừ, quả thật là vậy.

Tôi tiếp tục im lặng hút tàn điếu thuốc. Vẫn quay lưng về phía tôi, nhìn qua gương tôi thấy cô đang nhấn ép những quầng thâm hiện lên dưới mắt.

"Mấy giờ rồi?" cô hỏi lần nữa.

"Quá mười phút."

"Tôi trễ giờ rồi. Tốt hơn anh cũng nhanh mặc quần áo rồi đi về đi," cô nói, rồi lấy eau de cologne aerosol xịt vào nách.

"Anh có nhà chứ?"

"Có," tôi đáp, rồi mặc chiếc T-shirt qua đầu. Vẫn ngồi trên giường ngủ, một lần nữa tôi lại nhìn qua ô cửa.

"Muốn đi đến đâu?"

"Gần bến cảng.Thì sao?"

"Tôi chở đi cho. Vậy cô sẽ không trễ giờ."

Vẫn cầm chiếc lược trên tay, cô nhìn tôi sắc lẻm với đôi mắt trông như sắp khóc đến nơi. Giả như cô có thể khóc, cảm giác hẳn sẽ nhẹ nhõm hơn nhiều, tôi thầm nghĩ. Tuy nhiên cô không khóc.

"Này, có một điều anh cần phải nhớ. Quả thật là tôi uống quá nhiều và đã say. Do đó, giả có việc gì xảy ra ngoài ý muốn thì đó là trách nhiệm của tôi."

Sau khi nói thế, cô gõ gõ đôi lần chiếc cán lược vào lòng bàn tay như thể một hành động thị uy. Tôi chỉ im lặng đợi cô nói tiếp.

"Đúng không?"

"Cũng có thể."

"Nhưng thứ đàn ông lên giường với phụ nữ đang bất tỉnh là ... thứ đàn ông hạ tiện."

"Nhưng tôi chẳng làm gì cả."

Cô im lặng một thoáng như thể cố kìm nén cảm xúc đang dâng trào.

"Nếu vậy, sao tôi lại trần truồng?"

"Chính cô tự cởi quần áo của mình."

"Tôi không tin."

Cô ném chiếc lược lên giường rồi nhét ví, son môi, thuốc nhức đầu, cùng mấy món đồ linh tinh khác vào trong túi xách tay của mình.

"Anh có thể chứng minh là mình thật sự không làm gì cả không?"

"Tự kiểm tra đi."

"Bằng cách nào?"

Có vẻ cô ta đã thật sự mệt mỏi.

"Thề vậy."

"Tôi không tin."

"Muốn hay không cô cũng phải tin," tôi đáp trả. Sau đó, tôi cảm thấy thật ghê tởm.

Cô có vẻ đã bỏ cuộc nên ngừng câu chuyện và xua tôi ra khỏi phòng. Sau đó, cô cũng đi ra rồi khóa cửa phòng lại.

Không nói một câu nào, chúng tôi bước trên con đường trải nhựa nằm dọc mép sông hướng ra bãi đất trống nơi tôi đậu xe.

Trong lúc tôi dùng khăn giấy lau bụi trên kính trước, cô bước chậm rãi quanh xe đầy cảnh giác. Sau khi đi quanh một vòng, cô thoáng nhìn chăm chăm gương mặt con bò khá to được vẽ bằng sơn trắng trên nắp ca-pô xe. Con bò có đeo khoen mũi, trong khi miệng ngậm một cành hồng trắng. Con bò cười. Nụ cười bất nhã.

"Anh vẽ nó à?"

"Không. Chủ trước của xe."

"Sao lại vẽ con bò chứ?"

"Chẳng biết." tôi nói.

Cô lùi hai bước về phía sau rồi lại ngắm nhìn hình con bò. Rồi như thể mệt mỏi vì đã nói quá nhiều, cô im lặng bước vào trong xe.

Nhiệt độ trong xe khá nóng, cô không nói một lời nào tới tận lúc chúng tôi đã đến bến cảng. Cô chỉ liên tục lau mồ hôi tuôn chảy bằng chiếc khăn nhỏ và không ngừng hút thuốc. Sau khi châm điếu thuốc và rít khoảng ba hơi, cô ngắm điếu thuốc như đang kiểm tra vết son môi in trên đầu lọc, dụi điếu thuốc vào chiếc gạt tàn trên xe, rồi lại châm điều mới.

"Chuyện đêm hôm qua đấy... tôi đã nói những gì vậy nhỉ?" Đột nhiên cô lên tiếng hỏi khi khắc nữa sẽ bước xuống xe.

"Linh tinh đủ chuyện."

"Nói tôi nghe đi, một chuyện thôi."

"Về Kennedy.

“Kennedy?”

“John F. Kennedy.”

Cô lắc đầu rồi thở dài. "Tôi không nhớ."

Trước khi bước xuống xe, không nói điều gì cô lặng lẽ nhét tờ mười ngàn yen vào sau kính sau.



10.

Đó là một đêm ôi ả. Cái nóng đủ để ốp-la một quả trứng.

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

10.

Đó là một đêm ôi ả. Cái nóng đủ để ốp-la một quả trứng.

Như thường lệ, sau khi đẩy vai mở cánh cửa nặng nề của quán Jay's Bar, tôi hít sâu luồng khí lạnh phả ra từ máy điều hòa. Trong quán, lập lờ mùi khói thuốc, whiskey, khoai tây chiên, mùi lông nách, và nước cống hòa trộn thành một tựa mùi bánh baumkuchen .

Tôi ngồi xuống chiếc ghế cuối mép quầy như mọi khi, vừa tựa lưng vào tường vừa trải tầm nhìn khắp quán. Trong quán hiện có ba lính hải quân Pháp vận đồng phục tôi chưa thấy trước đó bao giờ, hai phụ nữ đi cùng họ, và một nhóm thanh niên độ tuổi hai mươi. Hết, chỉ có vậy thôi. Trong khi đó, chẳng thấy bóng dáng Chuột đâu.

Sau khi gọi sandwich cornbeef và bia, tôi lấy sách đọc và quyết định sẽ đợi Chuột đến.

Khoảng mười phút sau đó, một phụ nữ độ tuổi ba mươi có đầu vú như quả nho và vận một bộ đầm liền sặc sỡ bước vào quán ngồi xuống cạnh tôi. Như trước đó tôi đã làm, cô ta hướng nhìn quanh quán rồi gọi gimlet . Sau khi uống xong mỗi một ngụm, cô đứng dậy đi gọi điện thoại khá lâu với gương mặt tỏ vẻ hối hả. Gọi điện xong, cô kẹp túi xách trong tay đi vào nhà vệ sinh. Cô ta lặp lại cùng chuỗi hành động đó ba lần trong vòng bốn mươi phút. Một ngụm gimlet, gọi điện thoại thật lâu, kẹp túi xách trong tay, và đi vào nhà vệ sinh.

Jay, người pha chế, bước tới đối diện tôi với vẻ mặt chán nản rồi thầm thì, "Mông chẳng sợ mòn hay sao?" Mặc dù là người Hoa, Jay nói tiếng Nhật tốt hơn nhiều so với tôi.

Lần thứ ba quay trở ra từ nhà vệ sinh, người phụ nữ lại hướng tầm nhìn một lượt quanh quán rồi ngồi xuống cạnh tôi và thì thầm. "Xin lỗi, cậu cho tôi mượn vài xu lẻ được không?"

Tôi gật đầu, gom mớ xu lẻ có trong túi xếp lên mặt quầy. Đồng mười yen, tổng cộng có mười ba xu.

"Cảm ơn. Tôi được cứu rồi. Cứ mãi đổi tiền ở quầy, gã pha chế lại sưng sỉa với tôi."

"Không có chi. Nhờ cô mà người tôi nhẹ hơn được một ít."

Cô ta gật đầu mỉm cười, rồi vội gom mớ xu lẻ trên quầy và đi về phía điện thoại.

Tôi bỏ ý định đọc sách, nhờ Jay mang chiếc tivi di động đặt lên quầy và quyết định xem trận đấu bóng chày được phát lại. Trận đấu cũng khá sôi động. Mới vào nửa đầu inning thứ tư đã có năm quả đánh thành công, gồm hai quả home run được ghi từ cú ném của hai pitcher khác nhau, đến nỗi cầu thủ chốt vòng ngoài không chịu được nữa và cuối cùng ngất xỉu vì hạ huyết áp. Suốt khoảng thời gian thay pitcher có năm quảng cáo được phát. Quảng cáo bia, bảo hiểm nhân thọ, vitamin, công ty hàng không, potato chips, và băng vệ sinh.

Với ly bia vẫn cầm trên tay, một trong ba người lính hải quân Pháp, người hình như không có bạn hẹn, bước đến sau lưng tôi rồi bằng tiếng Pháp hỏi tôi đang xem cái gì.

“Base ball,” tôi trả lời bằng tiếng anh.

“Base ball?”

Tôi giải thích ngắn gọn luật chơi bóng chày. Người này ném bóng, người kia vụt bóng bằng bat rồi chạy quanh gôn một vòng để ghi một điểm. Anh ta chăm chú xem tivi trong khoảng năm phút, nhưng khi quảng cáo xuất hiện anh ta quay sang hỏi tôi sao trong jukebox  không có bài hát của Johnny Hallyday .

"Vì ông ta không nổi tiếng," tôi bảo.

"Nếu vậy, ca sĩ người Pháp nào nổi tiếng ở đây?"

"Adamo ."

"Anh ta là người Bỉ mà."

“Michel Polnareff .”

"Gã đó à, rác rưởi!"

Sau khi nói vậy, anh ta quay về bàn của mình.

Bước vào inning thứ năm người phụ nữ cuối cùng cũng quay trở lại.

"Cảm ơn. Cho phép tôi mời cậu thứ gì đó."

"Không phải phiền đâu."

"Tôi thuộc loại người chưa hài lòng khi còn mắc nợ ai đó. Kể cả ân lẫn oán."

Tôi cố mỉm cười, nhưng gượng gạo chẳng thành. Tôi đành chỉ gật đầu im lặng. Cô giơ ngón tay gọi Jay rồi nói, "Bia cho cậu ta và gimlet cho tôi." Jay gật đầu ba lần rồi biến mất sau góc quầy.

"Người tôi đợi sẽ chẳng đến. Còn cậu thì sao?"

"Hình như cũng không."

"Chắc cậu đang đợi một phụ nữ?"

"Không, đàn ông."

"Tôi cũng vậy. Có vẻ chúng ta hợp nhau nhỉ."

Tôi miễn cưỡng gật đầu.

"Theo cậu, tôi khoảng bao nhiêu tuổi?"

"Hai mươi tám."

"Cậu cứ đùa."

"Hai mươi sáu."

Người phụ nữ bật cười.

"Vui thật đấy. Chứ cậu xem tôi vẫn độc thân hay đã có gia đình?"

"Có tiền thưởng không?"

"Được thôi.

"Đã cưới."

"Hừm, cậu chỉ trả lời đúng phân nửa. Tôi vừa ly hôn tháng trước. Trước giờ cậu có từng trò chuyện với phụ nữ vừa mới ly hôn chưa?"

"Chưa. Nhưng với bò điên thì đã từng."

"Ở đâu?"

"Trong phòng thực hành ở trường đại học. Năm người chúng tôi cùng đẩy con bò vào phòng."

Người phụ nữ thích chí cười nắc nẻ.

"Cậu là sinh viên à?"

"Ừ."

"Lúc trước tôi cũng là sinh viên đó nghen. Khoảng những năm sáu mươi ấy. Quả là quãng thời gian tươi đẹp."

"Điều gì tươi đẹp?"

Cô ta không nói, chỉ cười khúc khích rồi uống một ngụm gimlet. Đột nhiên cô nhìn đồng hồ như chợt nhớ ra điều gì.

"Tôi phải gọi điện lần nữa," cô ta nói rồi đứng dậy với túi xách kẹp trong tay.

Sau khi cô ta đi mất, câu hỏi tôi để ngỏ khi nãy lửng lơ một lúc trong không khí.

Sau khi uống hết nửa chai bia, tôi gọi Jay thanh toán.

"Muốn bỏ chạy sao?" Jay hỏi.

"Chắc vậy."

"Cậu không thích lái máy bay bà già à?"

"Chẳng liên quan gì đến tuổi tác cả. Quan trọng là, giúp tớ gửi lời chào nếu Chuột có đến."

Khi tôi rời khỏi quán, người phụ nữ đó chỉ mới gọi điện thoại xong và sẽ lại đi vào nhà vệ sinh lần thứ năm.

Tôi mãi huýt sáo trên suốt quãng đường về. Tôi huýt theo một giai điệu không biết từng nghe được ở đâu, nhưng mãi chẳng nhớ ra tên bài hát. Một bản nhạc đã rất xưa. Tôi dừng xe sát dọc bãi biển, và trong lúc ngắm mặt biển trong đêm tối mịt mờ tôi cố gắng nhớ lại tên bài hát đó.

Đó là bài Mickey Mouse Club. Nếu không nhầm, lời bài hát thế này:

“Come along and sing a song and join the jamboree! M-I-C-K-E-Y M-O-U-S-E.”

Có lẽ khoảng thời gian đó quả thật là quãng đời tươi đẹp.



11.

ON

Xin chào, xin chào các bạn! Mạnh khỏe cả chứ? Mình thì khỏe quá chừng khỏe! Khỏe đến độ chỉ muốn chia cho tất cả mọi người phân nửa sức khỏe này! Đây là Radio NEB, và như thường lệ chương trình Pops Telephone Request đã đến giờ phát sóng. Trong hai tiếng đồng hồ từ giờ đến 21.00 giờ sắp tới mình sẽ cho phát liên tục những bản nhạc đang hot để náo động hết mức buổi tối cuối tuần tuyệt đẹp này. Nhạc tiền chiến, nhạc vàng, nhạc trẻ, nhạc khiến bạn muốn nhún nhẩy, nhạc gây mê, nhạc bạn nghe là muốn ói, nhạc gì cũng được! Nhanh lên, gọi điện cho nhiều vào! Các bạn đã biết số điện thoại rồi đúng không. Cẩn thận nghen, chớ có nhầm số. Người gọi nhầm chịu lỗ, người nghe thì bực bội, nàh đó gọi là nhầm số điện thoại! Trời đất, nói lạc đề rồi. Sẵn tiện, kể từ khi mở tổng đài lúc 18.00 giờ, chục cái điện thoại trong phòng thu không ngừng đổ chuông suốt một tiếng đồng hồ rồi. Này, muốn nghe thử chuông điện thoại đang reo không? ... Sao hả? Rộn ràng quá phải không? Ừ, phải vậy chứ lại! Coi nào, gọi điện tiếp đi, đến rộp ngón tay mới thôi. Nói thêm cái nữa, tuần rồi điện thoại gọi đến nhiều tới nỗi đứt cầu chì đấy. Rốt lại, chúng tôi phiền mọi người rồi. Nhưng chớ lo. Hôm qua chúng tôi đã nối cáp loại đặc biệt lắm. Sợi cáp bự bằng cái chân voi. Chân voi thì bự hơn chân hươu cao cổ nhiều! Trời, lạc đề nữa rồi. Bởi vậy, các bạn không cần lo lắng làm gì, cứ gọi điên cuồng vào! Dù mọi người ở phòng thu có điên lên hết, cầu chì vẫn chả thèm đứt đâu. Oke? Nàh, hôm nay cũng nóng không chịu nổi, nhưng chúng ta cứ việc giảm nhiệt bằng mấy bản rock cuồng nhiệt thôi. Các bạn biết không, bản nhạc hay là để dùng cho mấy việc như thế. Giống con gái xinh vậy. Oke, giờ là bài hát đầu tiên. Im lặng thưởng thức nghen. Bài này hay cực. Quên cái nóng đi. Đây là Brook Benton với Rainy Night in Georgia.



OFF

………………Uuuuuuh……… ngột ngạt quá đi ………

…… Này, không chỉnh điều hòa lạnh hơn được à? …… Trong này cứ như địa ngục ấy …… Này đừng vậy chứ, tớ đổ mồ hôi cả rồi ……

…………… ừ, phải vậy chứ …………



……… Này, tớ khát khô cổ rồi, có ai đưa giúp tớ chai cola lạnh với? ……… Không phải lo, tớ sẽ chẳng đi tiểu đâu. Bọng đái tớ khỏe và đặc biệt lắm ………… ừ, bọng đái ………



…… Cảm ơn nghen Mie, em dễ thương ghê …… uhm, lạnh thật! ……

……… Này, sao không có đồ khui nắp chai vậy ……



……… Cậu điên à, sao dùng răng mở nắp được! …… Này, bản nhạc phát sắp hết rồi. Không đủ thời gian đâu! Lấy đại cái nào đó đi …… Wuee! Đồ khui đâu!



……… Chết tiệt! ………



ON

Tuyệt không. Âm nhạc đấy. Nghe Brook Benton hát Rainy Night in Georgia các bạn đã thấy mát dịu hơn chút nào chưa? Nhân tiện, các bạn biết nhiệt độ hôm nay cao nhất là bao nhiêu không? Ba mươi bảy độ đó! Ba mươi bảy độ. Dù đã mùa hè, nóng thế cũng quá đáng thật. Như nướng trong lò ấy. Tiết trời ba mươi bảy độ thì ôm gái sẽ dễ chịu hơn là tha thẩn một mình. Cái ôm ấm làm chúng ta thấy dịu mát hơn. Tin không? Oke, mình lảm nhảm tới đây là đủ rồi. Sẽ chơi tiếp một đĩa nhạc khác. Credence Clearwater Revival với Full Stop the Rain, hãy thưởng thức, baby!



OFF

……… Thôi, không cần nữa, tớ dùng đế mic-crô mở được rồi ………

……… Uwaah, đã quá ………

…… Không phải lo. Sẽ chẳng nấc cục đâu. Cậu cứ hay lo thế nhỉ ……

…… Này, trận bóng chày kết quả sao rồi? …… Được phát trên đài khác đúng không? ……

……… Này, trong phòng thu chẳng có cái radio nào cả là sao? Thế gọi là tội ác đấy ……

…… Oke, tớ hiểu. Thôi, được rồi, bỏ đi. Giờ tớ lại muốn uống bia đây. Bia ướp thật lạnh ……

…… Trời, phiền quá đi. Tớ muốn nấc cục làm chi ……

……… hức ………



12.

Điện thoại đổ chuông lúc 19.15.
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

12.

Điện thoại đổ chuông lúc 19.15.

Lúc đó tôi đang trong phòng khách thư giãn trên chiếc ghế mây vừa uống bia và liên tục nhai cracker phô mai.

"Xin chào. Đây là radio NEB với chương trình Pops Telephone Request. Bạn có đang nghe radio không?"

Tôi nuốt vội một ngụm bia để tống mấy miếng cracker phô mai còn trong miệng trôi xuống cổ.

“Radio?”

"Ừ, radio. Chiếc máy tuyệt vời nhất, hức, được nền văn minh tạo ra. Chiếc máy thông minh hơn nhiều so với vacuum cleaner, nhỏ hơn so với tủ lạnh, và rẻ hơn so với tivi. Bạn đang làm gì vậy?"

"Tôi đang đọc sách."

“Chậc, chậc, chậc. Không tốt đâu. Lẽ ra bạn phải nghe radio. Bạn sẽ chỉ thấy thêm cô độc nếu đọc sách. Đúng không?"

"Ừ."

"Sách thì cầm đọc bên tay lúc đang trụng spagetti là đủ. Hiểu chứ?"

“Ừ.”

“Tuyệt, hức, bây giờ, có vẻ chúng ta có thể bắt đầu trò chuyện được rồi đấy. Mà, bạn có từng trò chuyện với phát thanh viên nào không thể dừng nấc cục chưa?”

“Chưa.”

“Nếu vậy, đây là lần đầu đấy. Các thính giả đang lắng nghe radio cũng mới lần đầu nghe một phát thanh viên nấc cục. Nhân tiện, bạn có biết vì sao mình gọi cho bạn khi đang phát sóng thế này không?”

“Không.”

“Thật ra có một cô gái gửi tặng bạn một bài hát, hức. Nghĩ xem có biết đó là ai không?”

“Không.”

“Cô gái yêu cầu một bản nhạc xưa, California Girls của Beach Boys. Sao, nhớ ra điều gì không?”

Suy nghĩ một thoáng, tôi đáp. "Tôi hoàn toàn chẳng nhớ gì cả.”

“Hừm, tệ thật này. Nếu bạn đoán đúng, chúng tôi sẽ tặng bạn một chiếc T-shirt đặc biệt. Cố nhớ lại đi."

Tôi cố nhớ lại một lần nữa. Lần này, dẫu chỉ thoáng qua, tôi nhận thấy có điều gì hiện ra nơi một góc ký ức của mình.

“California Girls, Beach Boys, sao, có nhớ không?”

“Nếu không nhầm, tôi có mượn một đĩa than Beach Boys của cô bạn cùng lớp khoảng năm năm trước.”

“Quan hệ thế nào vậy?”

“Tôi tìm giúp kính sát tròng cô ấy đánh rơi trong chuyến tham quan. Thay lời cảm ơn, cô ấy cho tôi mượn đĩa nhạc đó.”

“Kính sát tròng à. Nhân tiện, bạn có trả lại đĩa nhạc cho cô ta không?”

“Không. Tôi đánh mất đĩa than đó rồi.”

“Wah, thật là. Tốt hơn bạn nên mua và gửi trả cô ấy một đĩa nhạc mới đi. Có câu ngạn ngữ thế này, có thể ban ơn cho phụ nữ, hức, những chớ nên mắc nợ họ. Hiểu chứ?”

“Ừ.”

“Tốt lắm. Cho cô gái năm năm trước đã đánh rơi kính sát tròng của mình trong chuyến tham quan, hẳn bạn đang nghe chương trình phải không? Ơ, tên cô ta là gì vậy?”

Tôi nói ngay cái tên mà mình cũng chỉ vừa nhớ ra.

“Này, cô gái, bạn cô bảo sẽ mua trả lại cho cô đĩa nhạc đó đấy. Vui quá đi chứ. Nhân tiện, bạn nhiêu tuổi vậy?”

“Hai mươi mốt tuổi.”

“Woa, cái tuổi đẹp đấy. Sinh viên à?”

“Ừ.”

“Hức.”

“Sao?”

“Bạn học ngành gì?”

“Sinh học.”

“Ooh. Bạn thích động vật?”

“Ừ.”

“Bạn thích bộ phận nào?”

“… Bộ phận mà chúng không cười.”

“Ooh, động vật thật ra đâu biết cười?”

“Chó và ngựa cũng cười đấy thôi, dù chỉ đôi lúc.”

“Ooh, vậy à? Lúc nào nhỉ?”

“Lúc đang vui.”

Chẳng biết sao tôi bỗng bắt đầu thấy ngán ngẫm, một điều suốt mấy năm gần đây tôi không cảm thấy nữa.

“Nếu vậy, hức, chắc cũng có chó diễn hài đấy.”

“Chắc là anh.”

“Hahahahahahaha.”



13.

California Girls
Well east coast girls are hip
I really dig those styles they wear
And the southern girls with the way they talk
They knock me out when I’m down there
The mid-west farmer’s daughters really make you feel alright
And the northern girls with the way they kiss
They keep their boyfriends warm at night
I wish they all could be California girls




14.

Ba ngày sau, vào một buổi chiều tôi nhận được chiếc T-shirt gửi đến qua đường bưu điện. Chiếc T-shirt như thế này:
http://photos-c.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-snc6/hs046.snc6/167629_481271613741_626123741_6059638_2899325_a.jpg



15.

Sáng hôm sau, tôi mặc chiếc T-shirt mới, lớp vải chọc vào da ngứa ngáy, dạo quanh bến cảng chẳng có ý định gì cụ thể. Rồi tôi mở cửa bước vào một tiệm nhỏ bán đĩa than tôi tình cờ bắt gặp. Không một người khách nào trong tiệm, chỉ có một nữ nhân viên trông tiệm đang ngồi một mình bên quầy. Cô ta đang kiểm tra mớ hoa đơn với vẻ mặt chán chường trong lúc uống lon coca cola. Sau một thoáng ngắm nhìn kệ đĩa than, bất chợt tôi nhận ra mình đã từng gặp cô gái này. Đó là cô gái không có ngón út đã nằm ngất trong nhà vệ sinh tuần trước. Này, tôi chào. Cô ta thoáng hoảng hốt khi trông thấy mặt tôi, nhìn chiếc T-shirt tôi đang mặc, rồi uống hết lon coca cola của mình.

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

15.

Sáng hôm sau, tôi mặc chiếc T-shirt mới, lớp vải chọc vào da ngứa ngáy, dạo quanh bến cảng chẳng có ý định gì cụ thể. Rồi tôi mở cửa bước vào một tiệm nhỏ bán đĩa than tôi tình cờ bắt gặp. Không một người khách nào trong tiệm, chỉ có một nữ nhân viên trông tiệm đang ngồi một mình bên quầy. Cô ta đang kiểm tra mớ hoa đơn với vẻ mặt chán chường trong lúc uống lon coca cola. Sau một thoáng ngắm nhìn kệ đĩa than, bất chợt tôi nhận ra mình đã từng gặp cô gái này. Đó là cô gái không có ngón út đã nằm ngất trong nhà vệ sinh tuần trước. Này, tôi chào. Cô ta thoáng hoảng hốt khi trông thấy mặt tôi, nhìn chiếc T-shirt tôi đang mặc, rồi uống hết lon coca cola của mình.

"Sao anh biết được tôi làm việc ở đây?"

Cô ta nói như thể vô vọng.

"Tình cờ thôi mà. Tôi đến mua đĩa than."

"Đĩa gì?"

“Album LP  Beach Boys có bài California Girls.”

Cô gật đầu đầy nghi hoặc rồi đứng dậy sải những bước rộng đi về phía kệ đĩa than, cắp một chiếc đĩa và quay lại như một chú chó đã được huấn luyện kỹ càng.

"Đĩa này phải không."

Tôi gật đầu rồi phóng tầm nhìn ra quanh tiệm với bàn tay vẫn đút vào trong túi.

"Đĩa Piano Concerto No. 3 của Beethoven nữa.”

Cô im lặng một thoáng và lần này quay lại mang theo hai chiếc đĩa than.

“Anh muốn đĩa nào, Glenn Gould  hay Backhaus ?”

“Glenn Gould.”

Cô đặt một chiếc đĩa than lên mặt quầy và mang chiếc đĩa còn lại cất vào chỗ cũ.

"Cả đĩa than của Miles Davis có bài Gal in Calico nữa.”

Lần này cô mất khá nhiều thời gian, nhưng cuối cùng cũng quay lại với một chiếc đĩa than.

“Gì nữa không?”

"Không, đủ rồi. Cảm ơn."

Cô xếp ba chiếc đĩa than lên mặt quầy.

"Anh sẽ nghe hết chỗ đĩa này à?"

"Không. Để làm quà."

"Tốt bụng quá nhỉ."

"Cũng nhiều người bảo vậy."

Cô nhún vai với vẻ mặt gượng ép rồi nói, "Năm ngàn năm trăm năm mươi yen." Tôi trả tiền rồi cầm lấy mấy đĩa than đã được gói gọn.

"Ờ, nhờ anh mà sáng giờ đã bán được ba chiếc đĩa than."

“Tốt đấy.”

Cô thở dài, ngồi xuống chiếc ghế đặt giữa quầy, rồi lại bắt đầu kiểm tra mớ hóa đơn.

“Cô thường trông tiệm một mình sao?”

“Còn một nhân viên khác nữa. Giờ cô ấy đang ra ngoài ăn trưa.”

“Còn cô thì sao?”

“Chúng tôi sẽ đổi chỗ khi cô ấy quay về.”

Tôi lấy thuốc lá trong túi, dùng bật lửa châm thuốc, rồi nhìn cô làm việc một lúc.

“Nếu không phản đối, chúng ta cùng ăn trưa được chứ?”

Không dời mắt khỏi mớ hóa đơn, cô lắc đầu.

“Tôi thích ăn một mình.”

“Tôi cũng vậy thôi.”

“Sao được?”

Như thể quá ngán ngẩm, cô đẩy đống hóa đơn qua một bên rồi đặt album mới của Harpers Bizarre  lên máy hát đĩa và hạ đầu kim xuống.

"Nếu vậy, sau anh lại mời tôi?"

"Thi thoảng tôi cũng muốn đổi thói quen."

“Thay đổi một mình đi.”

Cô lại với lấy mấy tờ hóa đơn rồi tiếp tục công việc của mình. "Được rồi, đừng phiền tôi nữa."

Tôi gật đầu.

"Như trước đây tôi từng nói, anh là thứ đàn ông hạ tiện." Sau khi nói vậy, cô bễu môi và giữ nguyên nét mặt đó cô lại lật mở những hóa đơn với bốn ngón tay của mình.



16.

Khi tôi bước vào quán Jay's Bar, Chuột đang đọc một trường thiên tiểu thuyết của Henry James, dày như cuốn danh bạ điện thoại trong lúc cau mày và chống khuỷa tay lên mặt quầy.

"Hay không?"

Chuột ngẩng mặt khỏi quyển sách rồi lắc đầu. "Nhưng giờ thì tớ đã đọc nhiều sách lắm đấy. Cậu có nhớ đoạn thoại trong cái phim chúng ta xem lần đó không? Lời thoại thế này, 'Tôi yêu lời dối trá đẹp đẽ hơn sự thật yếu đuối.'"

“Không hề.”

“Roger Vadim . Đạo diễn người Pháp. Cũng có đoạn thoại thế này, 'Thứ được gọi tên trí thức cao siêu là dù cùng lúc tồn tại hai ý niệm trái ngược nhau, cũng có thể đưa ra chức năng tối ưu cho hai ý niệm đó.'”

“Ai nói vậy?”

“Tớ quên rồi. Theo cậu vậy có đúng không?”

“Dối trá thôi.”

“Tại sao?”

“Chẳng hạn thế này. Chúng ta tỉnh giấc vào lúc 03.00 sớm và thấy đói bụng. Mở tủ lạnh xem thì chẳng còn thứ gì trong đó cả. Theo cậu, tốt nhất chúng ta nên làm gì?”

Suy nghĩ một thoáng, Chuột phá ra cười ầm ĩ. Tôi gọi Jay yêu cầu bia và khoai tây chiêu, rồi lấy đĩa than đã gói lại đưa cho Chuột.

"Gì đây?"

"Quà sinh nhật cho cậu."

"Tháng tới mới sinh nhật tớ mà."

"Tháng tới tớ đã chẳng còn ở đây nữa."

Chuột thoáng suy nghĩ trong lúc vẫn cầm gói quà.

"Đúng vậy nhỉ. Cậu đi rồi sẽ vắng lắm đây," Chuột vừa nói vừa mở gói quà, lấy ra chiếc đĩa than rồi mãi ngắm nhìn một lúc.

"Piano Concerto No.3 của Beethoven do Glenn Gould và Reynold Bernstein trình tấu. Hừm, chưa từng nghe đấy. Cậu nghe chưa?”

“Chưa.”

“Cảm ơn nghen. Tớ bảo thật đấy, tớ vui lắm.”



17.

Suốt ba ngày tôi mãi tìm số điện thoại của cô gái, người đã cho tôi mượn album LP Beach Boys.

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tam Diệp Thảo

17.

Suốt ba ngày tôi mãi tìm số điện thoại của cô gái, người đã cho tôi mượn album LP Beach Boys.

Tôi quay về trường trung học tới phòng hành chính để xin tra giúp danh sách tốt nghiệp. Cuối cùng, tôi cũng có được số điện thoại. Nhưng khi tôi gọi đến, lại nghe đoạn thu âm từ tổng đài báo rằng số điện thoại này đã không thể liên lạc được. Tôi liên hệ tới tổng đài danh bạ điện thoại và nói tên cô, sau khi tra tìm khoảng năm phút, người trực tổng đài cho biết cái tên đó không tồn tại trong danh bạ. Câu nói ‘cái tên đó’ nghe thật hay. Tôi cảm ơn và cúp máy.

Ngày hôm sau, tôi gọi hỏi vài người bạn đồng học lúc trước xem họ có biết cô ta đang ở đâu không, nhưng không một ai trong số họ biết cả, lại còn phần lớn chẳng nhớ rằng cô gái đó đã từng tồn tại. Người cuối cùng tôi gọi đến hỏi thậm chí còn bảo rằng không muốn nói chuyện với tôi rồi cúp máy. Không rõ vì lý do gì tôi chẳng biết.

Ngày thứ ba, tôi lại quay về trường một lần nữa và nhờ nhân viên phòng hành chính tìm xem cô gái đó đã vào đại học nào sau khi tốt nghiệp. Có vẻ cô ta đã học tiếp đại học nữ thục ở Yamanote. Đại học đó bao gồm cả bậc đào tạo thạc sỹ. Cô ta chọn ngành Văn Học Anh. Tôi gọi đến phòng hành chính đại học và bảo mình là nhân viên quản lý dầu giấm hiệu McCormick muốn liên hệ để làm cuộc thăm dò ý kiến nên cần biết rõ địa chỉ và số điện thoại của cô ta. Tôi nhã nhặn nói, “Tôi xin lỗi, nhưng việc này rất quan trọng.” Nhân viên phòng hành chính nói cần phải tra tìm trước đã và yêu cầu tôi năm phút sau hẳn gọi lại, rồi bảo rằng hồi tháng Ba cô ta đã nộp đơn thôi học. Nhân viên phòng hành chính cho biết lý do thôi học là để chữa bệnh. Nhưng khi tôi hỏi, “Bệnh gì vậy? Đã khỏe lại để có thể ăn salad chưa? Sao không xin nghỉ phép mà lại nộp đơn thôi học?” người nhân viên đó không thể trả lời.  

Khi tôi hỏi, “Cô có biết địa chỉ cũ của cô ấy không?” người nhân viên đã tìm thấy địa chỉ đó. Có vẻ cô ta ở trọ gần trường đại học. Khi gọi điện đến đó, người trả lời điện thoại có vẻ là bà chủ nhà trọ. Bà ta bảo rằng cô gái đó đã thôi trọ vào mùa thu trước và không rõ là cô đã đi đâu. Sau khi nói vậy, bà chủ nhà trọ cúp máy. Cách bà ta cúp máy như thể bảo rằng mình không muốn biết bất kỳ điều gì về cô gái đó.

Đó là điểm cuối mối dây liên hệ giữa tôi và cô.

Tôi quay về nhà, vừa uống bia một mình vừa nghe bản California Girls.



18.

Điện thoại đổ chuông.

Nằm gà gật trên chiếc ghế mây, tôi nhìn quyển sách để mở bằng đôi mắt mơ màng. Cơn mưa chiều buông nặng hạt, ướt đẫm cây lá ngoài vườn, sau đó tạnh hẳn. Rồi cơn gió nam ẩm ướt mang theo vị biển bắt đầu thổi, nhẹ chuyển lay lũ lá cành trong dải chậu kiểng xếp thẳng hàng dưới hiên, phơ phấp bức mành.

“Chào,” cô nói. Cách cô nói như thể người ta đang đặt một chiếc ly mỏng manh lên mặt bàn dao động dễ lung lay. “Vẫn nhớ tôi chứ?”

Tôi thoáng giả vờ hồi tưởng.

“Việc buôn bán đĩa than thế nào rồi?”

“Không tốt lắm. Hẳn là do đang suy thoái. Chẳng ai nghe đĩa than nữa.”

“Ừm.”

Cô gõ gõ móng tay vào tay cầm điện thoại.

“Tìm số điện thoại của anh cũng phiền phức gớm.”

“Sao vậy?”

“Tôi đến quán Jay’s Bar hỏi. Người trong quán lại hỏi bạn anh. Cái người cao cao, quái quái ấy. Anh ta đang đọc Molière .”

“Oh, vậy sao.”

Im lặng.

“Mọi người đều nhớ anh. Họ bảo hẳn anh đang ốm vì suốt tuần rồi không đến quán.”

“Tôi không biết là mình nổi tiếng đến thế.”

“… Anh giận tôi sao?”

“Sao lại phải giận?

“Vì tôi đã nói những lời bất nhã với anh. Do đó tôi muốn xin lỗi.”

“Này, cô không cần phải bận lòng vì tôi đâu. Nhưng nếu vẫn thấy áy náy thì cứ đến công viên rải đậu cho lũ chim bồ câu ấy.”

Cô ta thở dài, tôi nghe tiếng cô châm thuốc phía bên kia tay cầm điện thoại. Bản nhạc Nashville Skyline của Bob Dylan nghe vang từ phía sau. Có lẽ cô đang gọi điện từ cửa tiệm.

“Vấn đề không phải là anh cảm thấy thế nào. Mà tôi thấy đáng ra mình không nên nói với anh như vậy,” cô nói nhanh.  

“Cô quá nghiêm khắc với bản thân đấy.”

“Ừ. Tôi luôn nghĩ mình muốn vậy.”

Rồi cô im lặng.

“Chúng ta có thể gặp nhau tối nay không?”

“Được thôi.”

“20.00 giờ ở Jay’s Bar. Được chứ?”

“Cứ vậy đi.”

“… Này, tôi đã trải qua rất nhiều chuyện bực mình, biết chứ”

“Tôi hiểu mà.”

“Cảm ơn.”

Cô cúp máy.



19.

Nếu kể ra thì rất dài dòng, cốt yếu là ít lâu nữa tôi sẽ bước qua tuổi hai mươi mốt.

Quả thật vẫn còn rất trẻ, nhưng không trẻ như trước đó nữa. Nếu thấy không hạnh phúc với điều đó, thì chẳng còn cách nào khác ngoài việc nhảy xuống từ đỉnh Empire State Building vào một sáng Chúa nhật.

Tôi từng nghe câu nói đùa thế này trong một phim khá xưa lấy bối cảnh về cuộc đại khủng hoảng.

“Anh biết không, mỗi lần ngang qua Empire State Building tôi luôn phải che ô. Vì trên trời quá nhiều người rơi xuống.”

Bây giờ tôi đã hai mươi mốt tuổi, ít ra lúc này tôi chưa có ý định sẽ chết. Cho đến giờ tôi đã ngủ với ba người phụ nữ. Người đầu tiên là bạn đồng học thời phổ thông, lúc đó chúng tôi mới chỉ mười bảy tuổi và cứ chắc rằng chúng tôi yêu nhau. Một chiều sau bụi cây rậm rạp, cô cởi bỏ đôi giày nâu, đôi vớ bông trắng, chiếc đầm xanh diệp lục, chiếc áo ngực rõ ràng là to quá cỡ, và sau một thoáng chần chừ cô tháo cả đồng hồ ra. Rồi chúng tôi ôm ấp nhau trên tấm báo Asahi số ra Chúa nhật.

Rồi đột ngột chúng tôi chia tay chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp phổ thông. Tôi đã quên mất vì lý do gì, ừ một lý do có thể dễ dàng quên lãng mà thôi. Kể từ đó, tôi chưa lần nào gặp lại cô ấy. Đôi lúc tôi cũng nghĩ về cô trong những đêm mất ngủ. Chỉ vậy mà thôi.

Người phụ nữ thứ hai là một cô gái hippie tôi gặp trong ga điện ngầm Shinjuku. Cô ta mười sáu tuổi, hoàn toàn rỗng túi và không có cả chỗ ngủ, và tệ hơn nữa là gần như không có ngực. Tuy nhiên cô có đôi mắt đẹp tỏa cái nhìn thông minh sắc sảo. Đêm đó là thời điểm cuộc biểu tình đang nổ ra rầm rộ ở Shinjuku đến nỗi tàu điện, xe buýt, và tất cả mọi phương tiện xe cộ đều ngừng hoạt động hoàn toàn.

“Cứ lang thang ở đây thì em sẽ bị cảnh sát tóm đấy,” tôi nói. Cô ngồi xổm gần quầy vé đã đóng cửa, đang đọc tờ báo thể thao nhặt được từ thùng rác.

“Nhưng nếu cảnh sát bắt, họ thường sẽ cho ăn.”

“Nhưng em cũng sẽ bị đánh đập.”

“Tôi đã quen quá rồi.”

Tôi châm thuốc và đưa cô một điếu. Mắt tôi đau buốt như bị đâm chọc vì dính phải khói cay.

“Em ăn gì chưa?”

“Chưa, từ sáng giờ.”

“Chốc nữa tôi sẽ mua đồ ăn cho. Quan trọng là giờ chúng ta phải rời khỏi đây trước đã.”

“Sao anh lại muốn mua đồ ăn cho tôi?”

“Chả biết nữa.” Không biết vì sao, chính tôi cũng chẳng rõ lý do. Tôi kéo cô ra khỏi quầy vé rồi đi trên con vắng lặng về hướng Mejiro.

Cô gái câm lặng đó ở lại chung cư của tôi suốt khoảng một tuần. Mỗi ngày cô tỉnh giấc khi đã quá trưa, ăn, hút thuốc, mơ màng đọc sách, xem tivi, và thi thoảng làm tình với tôi dù không chút gì hứng thú. Hành lý của cô độc mỗi chiếc túi vải bố màu trắng, bên trong có chiếc áo khoác windbreaker  dày, hai chiếc T-shirt, quần jean xanh, ba chiếc quần lót cáu bẩn, cùng một hộp băng vệ sinh.

“Quê em ở đâu?”

Một ngày nọ tôi hỏi cô như thế.

“Một nơi anh không biết đến.”

Sau khi trả lời vậy, cô không nói gì thêm nữa.

Rồi một ngày, khi tôi từ siêu thị trở về mang theo một túi thức ăn, cô đã đi mất. Chiếc túi vải trắng cũng chẳng còn đó. Ngoài ra, vài món đồ cũng biến mất. Một ít tiền xu tôi quẳng trên bàn, một cây thuốc lá, và chiếc T-shirt của tôi vừa mới giặt sạch. Trên mặt bàn có mảnh giấy ghi chú viết vài chữ “Thật bực bội”. Hẳn là nói tôi.

Người phụ nữ thứ ba là sinh viên ngành Văn Học Pháp tôi quen trong thư viện đại học. Kỳ nghỉ hè năm tiếp theo cô treo cổ tự vẫn chết trong cánh rừng nhỏ nằm cạnh sân bóng quần. Không một ai phát hiện ra xác cô cho đến tận học kỳ mới bắt đầu, và trong suốt hai tuần cái xác đã đong đưa trong gió. Bây giờ, một khi trời bắt đầu choạng vạng, chẳng ai dám đến gần khu rừng đó.    



20.

(...)
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi.
(Olga F. Berggoltz)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (8 bài viết)
[1]