NHÌN LẠI TRẬN
NGỌC HỒI – ĐỐNG ĐA
NĂM 1789-[1]
Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789 là một trong những chiến công hiển hách bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn, đặc biệt trong 5 ngày đêm đầu tiên của mùa Xuân Kỷ Dậu, từ đêm 30 Tết đến trưa ngày mồng 5 Tết (tức là từ 25 đến 30/1/1789), bằng một trận quyết chiến chiến lược, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ đã quét sạch 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi, giữ vững nền độc lập dân tộc.
Trong những năm 80 của thế kỷ XVIII, sau khi đánh đổ ách thống trị của các thế lực phong kiến Nguyễn ở Đàng Trong và đánh bại cuộc xâm lược của quân Xiêm ở phương Nam, phong trào Tây Sơn phải gánh vác nhiệm vụ lịch sử trọng đại là đánh đổ tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh ở phía Bắc, tiếp đó là đánh đuổi quân xâm lược Mãn Thanh.
Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa khẳng định nghệ thuật quân sự tuyệt vời (Ảnh minh hoạ: congan.com.vn).
Sau cuộc tiến quân lần thứ hai ra Bắc Hà để trừng trị Vũ Văn Nhậm do phản bội, và tổ chức lại bộ máy chính quyền mới, bố trí lực lượng trấn giữ Thăng Long, từ tháng 6/1788, Nguyễn Huệ trở lại Phú Xuân. Lúc này lực lượng Tây Sơn trấn giữ Bắc Hà khoảng 1 vạn quân.
Để khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân (1788), Hoàng Thái hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin cầu viện.
Vua Càn Long nhà Thanh theo lời tâu của Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị liền điều động binh sĩ 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu hẹn ngày sang cứu viện.
Ngày 22/11/1788, quân xâm lược nhà Thanh gồm 29 vạn quân chia làm bốn đạo ồ ạt tiến vào nước ta.
Đạo thứ nhất là quân chủ lực do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đi qua Lạng Sơn vào cửa ải trấn Nam Quan. Trấn thủ Lạng Sơn là Đô đốc Nguyễn Văn Diệm lui quân. Đạo quân của Tôn Sĩ Nghị vào đến địa phận nước ta mà không gặp phải một trở ngại nào.
Đạo quân thứ hai do tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống chỉ huy qua Cao Bằng tiến xuống. Đạo quân thứ ba do Đề đốc Ô Đại Kinh tiến sang qua đường Tuyên Quang. Đạo thứ tư theo hướng Quảng Ninh tiến vào đóng ở Hải Dương.
Đợt tiến quân của quân Thanh không gặp một trở ngại nào là vì kế hoãn binh của Ngô Thì Nhậm đồng loạt cho rút quân. Ngô Thì Nhậm là một mưu thần rất sắc sảo của Nguyễn Huệ.
Thấy quân giặc đông, Ngô Thì Nhậm chủ trương không đánh, chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng, đồng thời nuôi chí khí kiêu binh và tư tưởng chủ quan của quân Thanh.
Tướng Ngô Văn Sở lại muốn dốc quân đánh giặc ngay từ khi chúng mới bước chân đến. Thấy vậy, Ngô Thì Nhậm liền nói: “Nay ta chủ động rút lui, không bị mất một mũi tên nào, đó là kế lùi một bước mà tiến hai bước, đợi khi chúng chủ quan, sơ hở, ta sẽ tiến công đánh cho chúng không còn mảnh giáp mà về, đó mới là kế hay”.
Ngô Văn Sở nghe xong liền cho rút toàn bộ quân về Thăng Long, tổ chức một cuộc chuyển binh lớn trên sông Hồng, rồi cho thuỷ binh lui về đóng giữ ở Biện Sơn, Thanh Hoá, bộ binh thì lui về giữ ở núi Tam Điệp, Ninh Bình, như thế là cả thuỷ và bộ liên kết thành một phòng tuyến vững chắc.
Ngô Văn Sở liền đưa tin cấp báo về thành Phú Xuân cho Nguyễn Huệ. Nhận được tin, Nguyễn Huệ rất bình tĩnh bảo với ba quân: “Chó Ngô là cái thá gì. Chúng đến đây chỉ để tự đi đến chỗ chết. Việc gì phải cuống quýt làm vậy?” (Nguyễn Thu, Lê quý kỷ sự, Nxb Khoa học Xã hội, H.1974, tr. 120).
Sau khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị đem quân vào chiếm nước ta, các tướng đã bàn với Nguyễn Huệ rằng: “Chúa công vừa có hiềm khích với vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc), dân chưa vững lòng tin cậy, nay nghe quân Thanh đến đánh như vũ bão tất sinh nghi ngại.
Chi bằng trước hãy chính danh hiệu ra ơn đại xá để yên lòng những kẻ phản trắc bên trong, sau để quang minh chính đại mà mang quân chống giặc bên ngoài”.
Nghe theo lời khuyên của các tướng, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22-12-1788), Nguyễn Huệ mặc áo long cổn, đội mũ bình thiên, dẫn văn, võ bá quan làm lễ tế trời đất ở Bân Sơn, xưng làm hoàng đế, đổi niên hiệu Thái Đức năm thứ 11 thành niên hiệu Quang Trung năm thứ nhất (1788) để quang minh chính đại ra Bắc dẹp giặc.
Ngay ngày hôm ấy, Hoàng đế Quang Trung dốc toàn bộ quân ở thành Phú Xuân thẳng tiến ra Bắc.
Khi đi qua Nghệ An, Hoàng đế Quang Trung cho quân dừng lại hơn 10 ngày để tuyển thêm binh sĩ và thăm dò ý kiến của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp.
Hàng vạn người hăng hái tham gia quân ngũ. Tổng số quân lên đến 10 vạn, chia làm 5 doanh. Một cuộc duyệt binh lớn đã được tổ chức tại dinh trấn Nghệ An.
Tại Thanh Hoá, nghĩa quân Tây Sơn được tiếp tục bổ sung thêm nhiều đinh tráng tự nguyện tòng quân diệt giặc, cứu nước.
Những người lính Tây Sơn mới tuyển được phiên chế trong những đạo “Trung quân”, đặt ngay dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Với cách phiên chế dó, những người lính cũ lính mới không khác gì nhau về chính sách đãi ngộ cũng như về trách nhiệm.
Do đó, họ dễ dàng đoàn kết, trao đổi để nâng cao tinh thần chiến đấu và kỹ thuật, chiến thuật, đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu mới.
Vua Quang Trung lại cho người mang ra trước trao cho Tôn Sĩ Nghị thư giả vờ xin hàng, lời lẽ trong thư rất nhã nhặn, khiêm tốn.
Về phần Tôn Sĩ Nghị thì từ lúc qua cửa ải, thấy không một ai dám đánh nên vênh váo tự cho mình là giỏi.
Tôn Sĩ Nghị tuyên sắc thư của vua Càn Long phong Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương, ban cho ấn vàng.
Nay nhận được thư của Nguyễn Huệ lại càng chủ quan, khinh suất, sai viết hịch bảo Nguyễn Huệ phải rút quân về Thuận Hoá chờ ngày xét hỏi, không được làm càn chuốc lấy tội.
Thấy Tôn Sĩ Nghị mắc mưu lơ là phòng thủ, vua Quang Trung cả cười thúc quân ngày đêm thần tốc ra Thăng Long.
Trên đường đi, vua Quang Trung - Nguyễn Huệ làm lễ “Thệ sư” (một hình thức động viên quân sĩ) ở Thọ Hạc (Thanh Hoá).
Vua Quang Trung ngồi trên đầu voi ra lệnh rằng: “Trong các quân của ta, ai muốn đánh thì phải vì ta mà giết hết lũ chó Ngô. Các ngươi hãy xem ta chỉ trong một trận sẽ giết được mấy vạn giặc cho coi. Các người hãy chờ xem. Không phải ta nói khoác đâu”.
Tiếp đó, vua Quang Trung đã đọc bài hiểu dụ tướng sĩ với những lời tuyên bố đanh thép biểu thị cao độ ý chí độc lập tự chủ và quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược:
Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Vua Quang Trung vừa dứt lời, tiếng dạ của chư quân tướng sĩ vang lên như sấm rung động cả núi rừng.
Khi đến trấn Sơn Nam, vua Quang Trung lại viết một bức thư khác gửi cho tướng giặc Tôn Sĩ Nghị, nhưng trong thư lần này, Quang Trung không tiếc lời mắng Tôn Sĩ Nghị là kẻ cướp nước và gọi Sĩ Nghị là Tôn điên.
Sĩ Nghị đọc thư xong thì tức tối sai Đề đốc Hứa Thế Hanh đem quân Tứ Dực đi trước đóng giữ các nơi hiểm yếu để bảo vệ thành Thăng Long.
Bốn đạo quân của quân Thanh đóng ở bốn vị trí Tây Long, Đống Đa, Hải Dương, Sơn Tây. Như vậy, Thăng Long là khu vực tập trung binh lực, trung tâm phòng thủ của địch.
Đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị đóng ở cung Tây Long có đạo quân chủ lực bảo vệ. Ở Đống Đa có đạo quân của Sầm Nghi Đống trấn giữ. Hai đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây và Hải Dương có nhiệm vụ bảo vệ phía tây bắc và phía đông nam của Kinh thành Thăng Long.
Đó là một hệ thống phòng thủ có chiều sâu, có trọng điểm nhưng phải bố trí trên tuyến dài nên dễ bị quân ta đánh chia cắt hoặc vu hồi. Mục đích của Tôn Sỹ Nghị là buộc quân Tây Sơn phải giao chiến từ xa Thăng Long.