Vua TỰ ĐỨC
Hoàng đế Tự Đức (嗣德) (1829-1883), huý Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), còn có tên Nguyễn Phúc Thì (阮福蒔) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn.
Là ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn nên ông rất đề cao Nho học. Ông chăm lo việc khoa bảng, sửa sang việc thi cử và đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa để chọn lấy người có tài văn học ra làm quan.
Ông là người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Ông làm nhiều thơ bằng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển hình như Luận ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca, ...
Có rất nhiều giai thoại văn chương về Tự Đức, nhất là những chuyện vua giao thiệp với các đình thần, các văn nhân đương thời.
1/
Thơ nói lái
Chuyện kể rằng, sau một buổi chầu, Tự Đức họp các quan để bàn luận chuyện cổ kim cùng ngâm vịnh thơ phú cho vui. Hôm ấy có một viên quan ở Hàn lâm viện, chức khá cao, đứng lên xin kể chuyện đức Thánh Trèm. Theo truyền thuyết, đức Thánh Trèm tên thật là Lý Ông Trọng, quê ở làng Trèm (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), có thân hình cao hơn hai trượng, có sức khoẻ phi thường, thi đỗ võ quan với nhà Tần (Trung quốc), có công đánh đuổi quân Hung Nô. Sau khi Ông Trọng trở về nước nam, vua Tần sai đúc tượng Ông Trọng đặt ở cửa Kim Mã, kinh đô Hàm Dương để quân Hung Nô khiếp oai không dám xâm phạm bờ cõi nước Tần nữa… Khi kể chuyện, viên quan muốn tỏ ra mình uyên bác, đã nói rằng sử sách Trung quốc và Đại Nam đều chép sai, phải gọi là Lý Trọng Ông mới đúng. Nhiều người có ý kiến bảo chính ông ta nói sai, nhưng ông ta không chịu cứ gân cổ cố cãi bừa, rằng từ nay phải gọi là Lý Trọng Ông.
Tự Đức nghe hai bên tranh cãi ầm ĩ, thấy cũng tức cười, bèn ứng khẩu đọc ngay một bài thơ rằng:
Ông Trọng như hà hoán Trọng Ông,
Chỉ nhân học vấn thiểu phu công.
Tư nhân an đắc cư lâm hãn,
Nghi truất Nội Hà tác phán thông.
Có người dịch ra thơ nôm như sau:
Ông Trọng làm sao gọi Trọng Ông
Chỉ vì học vấn kém phu công
Người này không ở Lâm Hàn được
Đuổi quách ra Hà giữ phán thông.
Ý chế giễu của bài thơ là ở chỗ câu nào cũng dùng những chữ nói lái như: Ông Trọng thành Trọng Ông, công phu thành phu công, hàn lâm thành lâm hàn, Hà Nội thành Nội Hà, thông phán thành phán thông.
Các triều thần nghe những câu thơ nói lái hài hước của vua Tự Đức, ai nấy đều phì cười, còn viên quan Hàn lâm nọ thì thẹn quá, chỉ biết cúi đầu đỏ mặt mà thôi.
2/
Thơ vịnh muỗi
Tự Đức là ông vua hay làm thơ, đồng thời cũng là ông vua thích dùng thơ để vui đùa với các đình thần. Tương truyền một hôm, Tự Đức nổi hứng đọc cho các viên quan ở Hàn lâm viện chép một bài thơ như sau:
Tiêu hà tá hán khởi ư phong
Sấn nhập trùng vi nhiễu trướng trung
Bất luận huân tiêu phàn khoái lực
Hốt văn hàn tín tự tiêu không.
Đây là bài thơ “Vịnh muỗi”. Nhưng Tự Đức cố tình không đọc đầu đề, lại cố ý dùng toàn những chữ đồng âm với những chữ chỉ tên người, tên đất trong sử sách Trung quốc như: Tiêu Hà (thừa tướng nhà Hán), Hán (nhà Hán), Phong (đất Phong Bái nơi Hán Cao Tổ dấy binh), Phàn Khoái (tướng giỏi của Bái Công), Hàn Tín (đại nguyên soái của Bái Công). Mấy ông Hàn lâm vốn là “những con mọt sách”, làu thông sử sách, nên khi nghe vua đọc đến những tên lịch sử ấy thì đều cho ngay đó là bài thơ vịnh sử, rồi cứ cắm đầu cắm cổ mà viết chẳng cần suy nghĩ gì cả.
Họ có ngờ đâu đã bị nhà vua cho một vố chơi khăm. Mãi đến khi Tự Đức xem bài của họ, vừa cười thích thú vừa chữa những chữ viết lầm của họ, thì họ mới biết đó chỉ là bài thơ “Vịnh muỗi”.
Hoá ra chữ tiêu 蕉 là tàu lá chuối, chữ hà 荷 là lá sen; hai chữ này viết khác hẳn hai chữ Tiêu Hà là tên người. Chữ hán chỉ là chữ hãn là cái cánh, đọc chệch âm, viết cũng khác chữ Hán là nhà Hán. Chữ phong là gió, viết khác hẳn chữ Phong là tên đất. Còn hai chữ phàn khoái là hun đốt đều có bộ hoả ở bên, mà viết cũng khác hai chữ Phàn Khoái là tên người. Hai chữ hàn tín là tin lạnh, chỉ trời trở rét; chữ hàn là lạnh rét viết khác hẳn chữ Hàn là họ Hàn, (chỉ có chữ tín là trùng với chữ Tín trong tên Hàn Tín). Như vậy, cả bài thơ theo đúng nghĩa phải dịch Nôm là:
Bẹ chuối đài sen cất cánh bay
Xông vào màn trướng quấy vo rầy
Chẳng cần hun đốt ra công sức
Tin lạnh đưa về tẩu tán ngay.
Qua nội dung bài thơ “Vịnh muỗi”, các vị hàn lâm viện cuối cùng cũng hiểu ra là nhà vua có ý chỉ trích họ chỉ là “những con mọt sách” mà thiếu hiểu biết đời sống thực tế của nhân dân. Không ngờ là các quan hàn lâm lại viết sai mấy chữ Hán thông thường, mọi người đều cảm thấy vừa thẹn vừa tức cười cho bản thân mình. Bấy giờ không chỉ có vua Tự Đức cười mà tất cả đều cười vang.
3/
Bài vè của vua
Tương truyền rằng:
Năm 1873, vua Tự Đức ngự thuyền ra cửa Thuận An. Vua đang ngắm cảnh biển. Bỗng có hai chiếc tàu ô của bọn cướp biển xông đến. Các thuyền hộ giá nhà vua sẵn sàng khí giới, súng ống đầy đủ, được vua ra lệnh cho bắn phá bọn tàu ô. Nhưng kết quả thuyền của triều đình thua to, bị chúng bắn lại nhiều người trọng thương. Chúng còn cướp được hai chiếc tải thuyền đem đi mất tích.
Vua ngao ngán trở về. Ông chứng kiến rõ ràng tình trạng quan quân bạc nhược. Người ta chờ đợi một sự trừng phạt các quan lại. Nhưng nhà vua vẫn im lặng.
Vài hôm sau bọn cung nhân, thị nữ và nội giám đều hát vang lên một bài vè tả cuộc thất bại ở Thuận An rất đầy đủ, cuối bài là những lời chỉ trích nặng nề các quan. Bài vè như sau:
Rằng năm Quí Dậu tháng tư
Ngửa vâng Hoàng thượng thánh từ sắc ban
Mười hai giá ngự Thuận An
Triều đình văn võ quân quan hộ tòng
Tưng bừng cờ phất trống rung
Chèo ba mái nhẹ thuyền rồng như bay
Càng nhìn càng đẹp càng say
Dẫu mà trăm cảnh không tày Thuận An
Ai ngờ một phút tự nhiên
Bỗng đâu chín chiếc tải thuyền chạy ra
Ngọn buồm trông thấy xa xa
Gần vời nghe tiếng súng ra đùng đùng
Tàu ô hai chiếc buồm giong
Đều buông tiếng súng gẫm cùng to gan
Trương buồm chạy dọc chạy ngang
Căm hờn mấy lũ mấy đoàn tàu ô
Tung hoành bố mạy, xí lô
Đứa đâm, đứa chém, đứa xô xuống tàu
Các quan khi ấy gửi tâu
“Ngửa trông Hoàng thượng lên lầu ngự ra”
Lệnh truyền: “Hộ vệ thần cơ
Ai mà bắn đặng tàu ô nó rày
Quyền ban lộc thưởng cao dày! "
Sắc vừa ban xuống nạp ngay súng liền
Bắn thời phát thẳng phát xiên
Bắn ra chẳng trúng vào thuyền tàu ô
Hở ra thì nó chạy vô
Bắt đi hai chiếc ai mô chẳng tường
Thấy thôi nửa giận nửa thương
Giận thay chúng nó, thương đường quân ta
Đứa thì bị thuốc cháy da
Đứa thời bị đạn máu ra đầm mình
Làm cho chúng nó dể khinh
Nghĩ lại phận mình chẳng biết cứu nhau
Phải chi diệu vợi nơi đâu
Đã toan lập lưỡng chước mầu tâu vô
Chẳng qua sự đã sờ sờ
Ai ai cũng lặng như tờ nín hơi
Nghĩ đời mà chán cho đời
Làm tôi ăn uống lộc trời lắm ru
Nghênh ngang võng võng dù dù
Bài vàng thêm mão xuân thu tháp đầu
Gẫm không tài cán chi đâu
Tham sanh uý tử một bè như nhau
Ăn thời giành trước giành sau
Đến khi có giặc rút đầu rút đuôi
Cũng xưng là đấng làm tôi
Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình!
Các quan triều nghe hát đều sửng sốt, bàn tán. Song họ cũng mau chóng biết được đó là bài vè ngự chế (vua làm) mà nhà vua đã giấu tên theo kiểu dân gian. Ai cũng bảo nhà vua thâm thuý; cho dù có phạt tội các quan theo luật hình cũng không thấm thía bằng những lời phê phán sắc bén ở đoạn cuối bài vè. Do vậy các quan đều cảm thấy tủi hổ vô cùng.
Rồi chẳng mấy lâu sau, bài vè cũng có cánh bay ra ngoài dân chúng. Mọi người đều cho là chuyện hi hữu xưa nay: vua mà cũng làm vè. Thế nhưng dân chúng cũng rất thú vị về cách trị tội các quan có một không hai này.
4/
Thơ phong hoa tuyết nguyệt
Tương truyền, có lần vua Tự Đức ra đầu đề cho các quan làm thơ. Nhà vua nêu quy tắc rất nghiệt ngã. Đầu đề muốn chọn thế nào cũng được, nhưng bài thơ phải có đủ tám câu. Tám chữ đầu của tám câu ấy bắt buộc phải là tám chữ: phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, hoạ, đồng thời theo thứ tự từ câu đầu đến câu cuối, phải có tám chữ số là : nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát.
Đa số các quan, các văn nhân đều gác bút, hoặc chỉ viết được những bài có “phong, hoa, tuyết, nguyệt,…” mà lại thiếu “nhất, nhị, tam, tứ, …” hoặc ngược lại. Nhưng Hồng Bảo, anh ruột của Tự Đức lại làm thành một bài thơ vừa hay vừa đủ các điều kiện của đầu đề. Nội dung bài thơ như sau:
Vân đạm, phong khinh, nhất diệp châu
Hoa cù ẩn ước nhị tầng lâu
Tuyết ngưng địa thượng tam đông lãnh
Nguyệt đáo thiên trung tứ bích sầu
Cầm vận ngũ huyền ca nhã hứng
Kỳ vi lục cuộc thúc doanh thâu
Thi thành thất bộ chung hoài cổ
Hoạ nhập Tiêu Tương bát cảnh đồ.
Nguyễn Đôn Như dịch thơ như sau:
Gió nhẹ mây êm một lá thuyền
Lầu hai lấp ló khóm hoa hiên
Ba đông tuyết phủ dồn hơi lạnh
Bốn vách trăng soi gởi nỗi phiền
Đàn gảy năm dây hoà giọng hát
Cờ vây sáu cuộc đổi thay phiên
Thơ xong bảy bước xui hoài cổ
Bút hoạ Tiêu Tương tám cảnh tiên!
Thơ làm được như vậy là cực nhanh và giỏi. Tự Đức phải phục tài.