Phủ Sùng Thánh ở Trường An có Trang điện (điện trang điểm) của HIền phi họ Từ. Thái tông có lần triệu, lâu không thấy tới, vua nổi giận. Phi vì thế dâng thơ rằng:
Triêu lai lâm kính đài Trang bãi độc bồi hồi Thiên kim thủy nhất tiếu Nhất triệu cự năng lai?
(Sáng ra bước tới đài gương Điểm trang xong, ngắm dung nhan bồi hồi Ngàn vàng mới một nụ cười Một lần triệu dễ đâu dời chân ngay?)
Lời thơ rõ ra là của một sủng cơ, nghe vừa nũng nịu vừa kiêu kỳ. Song có lẽ hôm ấy trông nàng đẹp thật và chắc vì vua cũng đang sốt ruột, nên bèn không giận nữa. Vả lại nàng họ Từ không những có sắc đẹp mà còn là một tài nữ trong hàng cung phi của Đường Thái tông.
Hiền phi họ Từ tên Huệ, người Hồ Châu. Sinh ra năm tháng đã biết nói, lên bốn tuổi hiểu sách Luận ngữ, đến tám tuổi thì biết làm văn. Cha là Hiếu Đức có lần thử tài bảo làm bài Tiểu sơn (Núi nhỏ) theo thể Ly tao, nàng đọc rằng:
Ngưỡng u nham nhi lưu miện, Phủ quế chi dĩ ngưng tưởng Tương thiên linh hề thử ngộ, Thuyên hà vi hề độc vãng?
(Ngước non sâu mà lệ chảy, Vỗ cành quế mà nghĩ ngợi Lấy ngàn tuổi chừ gặp đây, Vua việc gì chừ riêng tới?)
Hiếu Đức sợ lắm, biết không thể giấu. Người đương thời bàn tán với nhau, đồn đại tới triều đình. Thái tông nghe được, triệu nàng vào cung phong làm Tài nhân, kế thăng lên bậc Dung thừa. Năm Trinh Quán thứ 23 (649) nàng dâng sớ xin thôi việc binh, bãi lao dịch, trong có những câu như “ Kẻ có nghiệp lớn dễ kiêu căng, mong bệ hạ khó chỗ ấy; kẻ giỏi mở đầu khó kết thúc, mong bệ hạ dễ chỗ ấy... Định ra phép tiết kiệm, còn sợ làm xa xỉ; định ra phép xa xỉ, lấy gì ngăn đời sau?”. Năm Vinh Huy thứ 1 (650) chết, được tặng là Hiền phi. Em là Tề Tham, con là Kiên, đều nổi tiếng có học vấn.
Thái tông Lý Thế Dân là vị vua sáng nghiệp kiêm thủ thành của Đường triều, ắt phải ngoài có thần liêu tài giỏi trung thành phò tá, trong có hậu phi đoan chính hiền thục khuyến khích, điều đó đương nhiên khỏi bàn. Đáng nói là buổi ấy nhà Đường mới dụng, đời loạn vừa yên nên hạng danh sĩ tài nữ phần nhiều đều có cốt cách ngang tàng cứng cỏi; đến như một cô gái nhỏ cũng có khí phách, vịnh núi non thì không cầu có vua, làm cung phi thì không gấp đi hầu. Được sống giữa những người xuất chúng và trong một phong khí khoáng đạt như vậy, Lý Thế Dân quả là một ông vua may mắn làm sao!
Đường thi kỷ sự chép Đỗ Tiêu có vợ là nàng họ Lưu (có sách chép là họ Triệu). Tiêu trọ học ở xa, thi rớt định về nhà, nàng gửi thơ trước rằng:
Văn quân đích đích hữu kỳ tài Hà sự niên niên bị phóng hồi Như kim thiếp diện tu quân diện Quân đáo lai thời cận dạ lai
(Nghe anh chữ nghĩa cũng bề bề Sao cứ liền năm bị đuổi về Giờ thấy mặt chàng quê mặt thiếp Muốn vào anh hãy đợi canh khuya) (1)
Tiêu lập tức quay trở lại, không về nhà nữa. Kế thi đậu, vợ lại gửi thư rằng:
Trường An thử khứ vô đa địa Uất uất thông thông giai khí phù Lương nhân đắc ý chính niên thiếu Kim dạ tuý miên hà xứ lâu?
(Trường An tới đó không nhiều đất Hồng lục chen đua lắm sắc màu Đắc ý, chồng ta đang tuổi trẻ Đêm nay say ngủ ở nơi đâu?)
Tiêu đậu Tiến sĩ trong niên hiệu Trinh Nguyên (785-804), làm quan tới chức Thượng thư bộ Công, sự nghiệp và văn chương đều có chỗ hơn người, song sử sách đều có chép. Điều đáng nói là ông này có một người vợ thật dễ nể: chồng thi rốt thì chọc tức cho phẫn chí học tập, chồng thi đậu thì nói móc để hạn chế chơi bời, mà đều bằng thơ văn cả. Đàn bà dễ có mấy tay!
(1) Theo bản dịch trong Lều chõng của Ngô Tất Tố. Chúng tôi xin phép người đọc cho sửa vài chữ cho gần gũi hơn với ngôn ngữ hiện đại.
Lý Thân tự Công Thuỳ, hiệu Đoản Lý, cháu cố của Lý Kinh Huyền. Thi đậu Tiến sĩ trong niên hiệu Nguyên Hoà (806-820), giữ chức Hàn lâm viện học sĩ. Nổi tiếng hay thơ, cùng Lý Đức Dụ và Nguyên Chẩn được người đương thời gọi là "Tam tuấn" (ba người anh tuấn). Đời Mục tông (821-824) được triệu làm Hữu Thập di. Đời Vũ tông (841-846) làm tới chức Thượng thư Tả bộc xa môn hạ Thị lang (một cấp bậc của chức Thừa tướng), được bốn năm ra giữ trấn, kế chết. Có Tru tích du tập.
Thân buổi đầu lấy thơ cổ phong ra mắt Lữ Ôn. Ông đưa Tề Hủ xem, đọc bài Mẫn nông (Thương nhà nông) của Thân, nhân nói rằng " Người này ắt làm tới bậc khanh tướng", sau quả như lời ấy. Thơ Mẫn nông của Thân như sau:
I Xuân chủng nhất lạp túc Thu thu vạn khoả từ Tứ hải vô nhàn điền Nông phu do ngã tử
II Sừ hoà nhật đương ngọ Hãn trích hoà hạ thổ Thuỳ tri bàn trung xan Lạp lạp giai tân khổ
(I Mùa xuân gieo một hạt con Vào thu gặt vạn hạt tròn về tay Ruộng nương khắp chốn giăng bày Nhà nông có kẻ chết vì thiếu ăn
II Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa luống cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần (1)
Cũng có thể nói Lữ Ôn là kẻ tinh đời, song nghĩ cho cùng thì cái dự báo của ông về tiền đồ của Lý Thân là hoàn toàn có thể giải thích được. Vào thời bấy giờ thì nông dân, nông nghiệp và nông thôn là nền tảng kinh tế, xã hội và văn hoá của quốc gia, thương xót nhà nông cũng là thương yêu thiên hạ; học thức và tấm lòng của Lý Thân nhờ vậy mà được đời dùng, và đời dùng thì đời phải dung nên cố nhiên là ông ta làm tới bậc khanh tướng. Chứ về sau thì kinh tế thị trường phát triển, tấm lòng với thiên hạ của các bậc khanh tường và những kẻ sĩ toan làm khanh tướng tự nhiên phải hướng tới thương yêu và trọng vọng những đối tượng có nhiều vốn káhc, ít có thời gian thương xót nhà nông hơn...
(1) Bài II này theo một bản dịch khuyết danh vẫn được coi là ca dao Việt Nam.
Ngày trước, phụ nữ bị ràng buộc và khống chế bởi chuẩn mực tam tòng (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử - Ở nhà thì theo lời cha, lấy chồng thì theo lời chồng, chồng chết thì theo lời con trai) nên dần dần bị đẩy vào vai trò phụ thuộc với tâm lý thụ động trong nhiều hoạt động cả tại gia đình lẫn ngoài xã hội. Song cũng có không ít người hoặc nhờ học vấn, hoặc qua thực tiễn đã đi tới chỗ chống đối, phủ nhận thứ đạo đức vô nhân ấy, trước hết là về mặt tình cảm và ý thức. Trương Văn Cơ là một trường hợp.
Văn Cơ có bài thơ Khê khẩu vân (Đám mây ở cửa khe) như sau:
Nhất phiến khê khẩu vân Tài hướng khê trung thổ Bất phục quy khê trung Hoàn tác khê trung vũ
(Một mảnh mây cửa khe Từ miệng khe lan toả Chẳng trở về trong khe Lại rớt làm mưa nhỏ)
Từ thi pháp Đường thi và giới tính của tác giả mà nhìn, bài thơ trên đã ít nhiều thể hiện cái tâm tình của một người phụ nữ không cam lòng "sống yên phận". Mảnh mây kia tuy ra từ cửa khe song không trở về với dáng hình như cũ, mà hoá thành cơn mua rơi xuống cho nước trong khe thêm mát thêm đầy. Cái hàm ý giúp thêm cho nước trong khe này là điểm khởi đầu để người ta nghĩ tới ý thức sáng ngang vai với nam giới ở Văn Cơ, một ý thức mà dường như bài Sa thượng lộ (Con cò trên bãi cát) đã bộc lộ khá minh bạch:
Sa đầu nhất thuỷ cầm Cổ dực dương thanh âm Chỉ đãi cao phong tiện Phi vô vân hán tâm
(Bãi bờ riêng lặn lội Đập cánh tiếng vang dầy Chỉ đợi gió to nổi Nào không dạ lướt mây)
Lời thơ mang khẩu khí lướt gió tung mây so ra chẳng kém gì những đấng anh hùng nam giới như vậy cho thấy tác gải quả là một phụ nữ có chí khí hào hùng. Đáng tiếc là không rõ lai lịch và hành trạng của Văn Cơ, chỉ biết rằng nàng là vợ của một viên Tham quân họ Bão. Tuy nhiên vào thời Đường thì Nho giáo còn chưa hoàn chỉnh đồng thời chưa chiếm được hẳn vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần của xã hội, mặt khác lại có nhiều phụ nữ thực sự tham gia hoạt động xã hội ở các vị trí cao, chẳng hạn Trương Xuất Trần (tức Hồng Phát, vợ Lý Tĩnh), Bình Dương công chúa (chị Lý Thế Dân) hay điển hình là Vũ Tắc thiên..., có lẽ hoàn cảnh và phong khí ấy của thời đại đã ít nhiều tác động tới hạng tài nữ như Văn Cơ chăng?
Trương Văn Cơ nổi tiếng hay thơ, giỏi vịnh vật ngụ ý, lời lẽ tình tứ uyển chuyển, các thi nhân đồng thời rất xưng tụng.
Ngày xưa người ta sáng tác với quan niệm Văn hàng công khí - văn chương được lưu truyền là vật báu chung của thiên hạ. Văn chương lúc ấy chưa phải là một thứ hàng hoá đúng nghĩa trong một thị trường chữ nghĩa thật sự, bằng chứng là luật pháp chưa đặt ra vấn đề bảo hộ tác quyền. vÀ có lẽ vì chẳng được bao nhiêu lợi lộc nên người ta cũng ít hứng thú đạo văn, thậm chí có khi lại "vu khống" những người nổi tiếng là tác giả của tác phẩm của mình để chúng được truyền tụng rộng rãi - sự này cố nhiên là rất bậy nhưng phần lớn cũng chỉ xâm phạn độc quyền nhãn hiệu của các nhân vật đã quá cố nên ít khi bị chửi, hơn thế nữa còn góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho các nhà Thư tịch học, Văn bản học đời sau...Tuy nhiên giống như một sự vay mượn tinh hta62n và tạm ứng trí tuệ để tự khẳng định bản thân trong lãnh vực rất khó tự khẳng định là văn chương chữ nghĩa, cổ nhân cũng có những kẻ đạo văn; và mặc dù không phải là hoàn toàn bất tài so với các nạn nhân của mình nên có phần ít dốt nát hơn giới "đạo sĩ" (đạo ở đây là trộm cắp) thời nay, họ cũng để lại cho đám hậu sinh khả uý và khả ố này một số phương thức tổng quát cũng như thủ pháp cơ bản - chẳng hạn "thủ tiêu các bằng chứng buộc tội" và "nguỵ tạo các bằng chứng ngoại phạm". Vài giai thoại thơ Đường dưới đây là minh chứng.
Lý Nghĩa Phủ, Tể tướng đời Cao tông (650-683) có bài thơ ngũ ngôn như sau:
Lũ nguyệt vi ca phiến Tài vân tác vũ y Tự lân hồi tuyết ảnh Hảo thủ Lạc Xuyên quy
(Quạt ca đem nguyệt chạm Áo múa lấy mây may Tuyết rọi thương cho bóng Khéo đem sông Lạc về)
Đương thời có Huyện uý Táo Cương Trương Hoài Khánh rất hay trộm cắp văn chương của các bậc danh sĩ đọc thấy bèn tân trang thành thơ thất ngôn:
Sinh tình lũ nguyệt vi ca phiến Xuất tính tài vân tác vũ y Chiếu giám tự lân hồi tuyết ảnh Lai thời hảo thủ Lạc Xuyên quy
(Tình hứng quạt ca đem nguyệt chạm Tính thành áo múa lấy mây may Soi lên tuyết rọi thương cho bóng Khen kẻ khéo đem sông Lạc về)
Thông thường ai không có thịt cá mới dùng nhiều bột ngọt (mì chính) để nấu canh, cũng như ai không có ý tưởng mới tung hứng ngôn từ để làm ảo thuật chữ nghĩa. Tám chữ của thi nhân đạo sĩ họ Trương thêm vào kia do đó cũng chỉ nhằm làm cho bài thơ khác đi so với nguyên tác của Lý Nghĩa Phủ như một lối thủ tiêu bằng chứng buộc tội, chứ về giá trị thì cũng chỉ là một thứ bột ngọt ngôn từ, chẳng ích lợi gì cho bài thơ về cả ý tứ lẫn nghệ thuật. Vụ đạo văn trắng trợn này đã khiến người đương thời có câu
Hoạt tước Trương Xương Linh Toạ thôn Quách Chính Nhất (Ăn tươi Trương Xương Linh Nuốt sống Quách Chính Nhất Xương Linh và Chính Nhất đều là hai nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ), ý nói Hoài Khánh chỉ giỏi việc "ăn tươi nuốt sống" thơ văn người khác mà thôi.
Tân Hoằng Trí và Thường Định Tông cùng là Tiến sĩ làm việc ở Quốc tử giám. Hoằng Trí có làm một bài thơ rằng:
Quân vi hà biên thảo Phùng xuân tâm thặng sinh Thiếp như đài thượng kính Đắc chiếu thuỷ phân minh
(Chàng nói cỏ ven sông Gặp xuân lòng hẳn xanh Thiếp như gương trên giá Soi tới mới phân minh)
Định Tông thấy tứ thơ đặc sắc đâm thú quá, bèn đổi chữ thuỷ (mới) trong câu cuối thành chữ chuyển (sẽ) rồi nhận là thơ của mình. Hai người cãi nhau, ai cũng nói "Ta làm viết ra trên giấy rõ ràng đây". Bác sĩ Quốc tử giám La Đạo Tông phân xử rằng "Phép tắc thơ ngũ ngôn đã tình từ xưa, là đều lấy lý để phân chia cao thấp. Nay có chuyện tranh giành, thì ai viết nhiều hơn là tác giả. Vậy bài thơ của Hoằng Trí, còn chữ chuyển là của Định Tông, cứ dựa vào bản viết tay của hai người mà xét theo công luận".
Kể ra theo logic trong kết cấu bài thơ, tức là cái mà La Đạo Tông gọi là "lý" thì chữ chuyển của Định Tông quả cũng làm bài thơ rõ hơn về ý và chặt hơn về nghĩa so với chữ thuỷ của Hoằng Trí thật. Có điều sử đi một chữ rồi nhận cả tác phẩm với ý tứ trọn vẹn của người ta làm của mình với lý do viết ra có khác như một lối nguỵ tạo bằng chứng ngoại phạm thì lối lý sự ăn người của Định Tông quả cũng khá trơ tráo. Nhưng so với đám hậu bối thời nay chỉ biết sử "năm mươi năm" thành "nửa thế kỷ", "tâm lý cứng cỏi mà phóng khoáng" thành "tâm lý rắn rỏi mà khoáng đạt"...thì ít ra ông ta cũng tài giỏi hơn một tầng. Xem ra nếu sống vào thời nay thì với bằng cấp sang cả, sở trường khôn vặt và nhất là bản lĩnh trơ tráo ấy có thể ông sẽ nổi tiếng trong một cái nghề danh giá là sửa chữa năm ba chỗ, thay đổi một đôi câu gọi là "hiệu duyệt, nhuận sắc" rồi ký tên là Chủ biên, Chỉ đạo hoặc Đồng tác giả...gì đó trên sách vở của kẻ khác viết cũng không biết chừng...
Dương Hành buổi đầu ẩn cư ở Lư Sơn, nổi tiếng hay thơ. Có một người quen đi thi ăn cắp thơ ông làm bài, đậu Tiến sĩ. Sau đó Hành lên kinh thi, cũng đậu Tiến sĩ, gặp người ấy bèn giận dữ hỏi "Câu Nhất nhất hạc thanh phi thượng thiên (Tiếng tiếng hạc kêu bay tới trời) có còn không? ". Người ấp đáp "Biết ông rất quý câu ấy, nên thật là không dám ăn cắp". Hành cười nói"Vậy thì còn tha được".
Cố nhiên Dương Hành bỏ qua việc vị Tiến sĩ - đạo sĩ kia trộm cắp thơ văn của ông vì chưa bị mất luôn câu mà ông đắc ý, nhưng việc "biết điều" mà chừa lại câu ấy cũng cho thấy ít ra người kia cũng có nhãn lực về văn chương nên việc ông ta thành khẩn nhận lỗi cũng làm cho Hành thoả mãn. Chứ như một vài học giả thời nay chép ráo cả những lỗi in ấn trong sách của người khác theo một cung cách dốt nát vô phương cứu chữa, khi bị vạch mặt còn già mồm thưa kiện hoặc cãi vã, thậm chí dùng cả thủ đoạn hạ lưu là vu khống nạn nhân của mình cũng đạo văn để chạy tội, thì đó không phải là loại trộm cắp nữa mà là hạng lưu manh rồi. Cho nên so với những kẻ dốt nát và vô sỉ không thể dùng đạo đức và dư luận để ngăn chặn mà có lẽ phải nhờ pháp lý và pháp đình soi tới mới phân minh được ấy, thì vị đạo sĩ nhờ trộm cắp văn chương của Dương Hành mà đậu tiến sĩ nói trên xem ra còn có nét dễ thương hơn...Có điều nếu nhớ lại những kẻ chép tác phẩm của người khác một cách khá nguyên văn vào những quyển sách bài báo ký tên mình nhưng khi bị phát hiện chỉ "cải chính" hay xin lỗi bằng mồm, thì có thể thấy rằng ông ta với họ cũng chỉ là cùng trường khác lớp!
Quách Cấp thời Hán làm Thái thú Tinh Châu, ,rất có ơn đức với dân. Một lần đi tuần thú xem xét việc án ngục thuế má, tới quận Tây Hà có vài trăm đứa trẻ con cưỡi ngựa trúc (trúc mã - tức cái que trúc, trẻ con nô đùa cầm kẹp vào giữa hai chân chạy nhong nhong giả như đang cưỡi ngựa) đón rước vái lạy bên đường. Về sau người ta dùng tích này để ca ngợi người làm quan được lòng dân.
Nhà Tôn Nguyện từ niên hiệu Trinh Nguyên (785-804) trở đi ba đời làm Thứ sử Tri Dương. Khi Nguyện tới nhậm chức, có người lính gác cửa dinh Thứ sử là Chu Nguyên đón bên đường dâng thơ rằng:
Tích nhật lang quân kim Thứ sử Chu Nguyên y cựu thủ chu môn Kim triêu trúc mã chư đồng tử Tận thị đương thời trúc mã tôn
(Ngày trước lang quân nay Thứ sử Chu Nguyên vẫn gác cửa dinh này Trẻ con ngựa trúc hôm nay đón Thảy cháu năm xưa ngựa trúc đây)
Lời thơ gỉan dị đồng thời trung hậu – tác giả tự giới thiệu mình từng là lính gác cửa thời cha Nguyện, lúc ấy Nguyện còn là một cậu ấm (lang quân) và cho biết rằng thưở bé đã từng cùng bạn bè trẻ nít đi đón mừng ông nội của Nguyện về làm Thứ sử Tri Dương. Tích trẻ con cưỡi ngựa trúc ở đây đã được dùng một cách sáng tạo – lũ trẻ ra đón Thứ sử hôm nay là cháu nội của lũ trẻ ra đón Thứ sử năm xưa, với ý ca tụng gia đình Nguyện ba đời làm quan có tiếng tốt. Bài thơ chúc mừng Tôn Nguyện bằng lời lẽ dè dặt nhún nhường của một người lính già hèn mọn, song ý tứ mới chân thành làm sao!
Ngày gửi: 15/03/2008 05:03 Đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Diệp Đồng vào 16/03/2008 03:37
Cát vàng chảy thẳng vào mây trắng
Vương Chi Hoán cùng Vương Xương Linh, Cao Thích uống rượu trong quán, có bọn giáo phường tới ca hát. Thời bấyg ìơ những ca kỹ thường lấy thơ của các danh sĩ phổ nhạc để hát, nên bọn Chi Hoán nhân đó hẹn nhau rằng nếu người nào có thơ được hát nhiều thì người ấy giỏi hơn. Người ca kỹ đầu tiên bước ra hát, là bài Phù Dung lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh:
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô Bình minh tống khách Sở sơn cô Lạc Dương thân hữu như tương vấn Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ (Mưa lạnh theo sông tối tới Ngô Sáng ra đưa khách núi Nam sầu Bạn bè đất Lạc như thăm hỏi Một mảnh lòng băng giữa ngọc hồ)
Vương Xương Linh nghe xong gật gù khen hay, lấy móng tay vạch lên vách sau lưng chỗ ngồi một nét, nói "Một bài". Người ca kỹ thứ hai bước ra hát, là bài Khốc Đan phủ Lương Cửu Thiếu phủ của Cao Thích:
Khai níp lệ triêm ức Khán quân tiền nhật thư Dạ đài hà tịch mịch Do thị Sở Vân cư (Mở tráp lại rơi lệ Luống nhìn thư cố nhân Tuyền đài đâu vắng vẻ Còn có bạn thơ văn)
Cao Thích nghe xong tấm tắc khen hay, lấy móng tay vạch lên vách sau lưng chỗ ngồi một nét, nói "Một bài". Người ca kỹ thứ ba bước ra hát, là bài Trường Tín thu của Vương Xương Linh:
Phụng chửu bình minh thu điện khai Thả tương đoàn phiến cộng bồi hồi Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc Do đới Chiêu Dương nhật ánh lai (Cung thu sáng quét mở toang rồi Quạt cũ trên tay luống ngậm ngùi Mặt ngọc nghĩ thua màu quạ lạnh Còn mang bóng nhật điện vàng bay)
Vương Xương Linh nghe xong nức nở khen hay, lại vạch thêm một nét trên vách, nói" Hai bài". Rồi cùng Cao Thích vờ làm ra vẻ đắc chí, cứ liếc nhau rồi nhìn Vương Chi Hoán tủm tỉm cười. Chi Hoán điềm nhiên chỉ người ca kỹ đẹp nhất trong bọn giáo phường nói " Nếu nàng ấy ra hát mà không phải thơ của ta thì từ nay về sau không dám so tài với các anh nữa". Liền đó nàng ấy bước ra hát, quả nhiên là một bài thơ đắc ý của Vương Chi Hoán, bài Xuất tái:
Hoàng sa trực thượng bạch vân gian Nhất phiến cô thành vạn nhận san Khương địch hà tu oán dương liễu Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan (Cát vàng chảy thẳng vào mây trắng Một mảnh thành côi núi vạn trùng Sáo rợ trỗi chi lời liễu oán Gió xuân đã bị Ngọc Môn phong)
Ba người nghe xong vỗ tay cười ầm lên, mọi người trong quán đều ngơ ngác. Người cầm đầu bọn giáo phường bèn tới bàn hỏi, khi biết chuyện vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vội gọi tất cả các nàng ca kỹ tới làm lễ ra mắt. Rồi đó bọn họ không ca hát nữa, gọi chủ quán dọn một bàn khác, mời ba người qua cùng nhau uống rượu, trò chuyện ngâm thơ, tấu nhạc ca hát vui vẻ với nhau đến khi thật say mới chia tay.
Bọn giáo phường tự cho là may mắn được hạnh ngộ với ba vị danh sĩ, song việc họ liên tiếp hát thơ của đúng ba người cũng là một kỳ sự đối với những kẻ văn nhân. Và bài Xuất tái quả là một tuyệt tác trong Đường thi, nên mới được bọn giáo phường phong nhã kia lấy làm nội dung cho tiết mục tự giới thiệu của ngội sao trong bọn họ (câu cuối của cả bốn bài thơ đều có thể hiểu như lời tự giới thiệu thân thế riêng của bốn nàng đồng thời thông qua đó nói về cả nhóm). Thi pháp Đường thì lấy khí và cách làm chủ, dùng việc và cảnh nói tình, mà trên cả hai phương diện này thì bài Xuất tái đều đạt tới mức tuyệt diệu. Tình thương nhớ quê hương của người lính thú nhân dịp xuân về ở đây quả là sầu mà không bi, thương mà không oán; còn từ cảnh Cát vàng cảhy thắng vào mây trắng tới việc Gió xuân đã bị Ngọc Môn phong thì các yếu tố cảnh và tình, thực và ảo đã đan xen, kết hợp, chuyển hoá vào nhau dưới một cái nhìn xuất sáo, một ngòi bút tài hoa. Sở dĩ Xuất tái phù hợp với tâm tư của những người cô độc tha hương và tâm trạng của những người sống trong nghịch cảnh (nàng ca kỹ kia là một ví dụ) chính vì nó tạo được những kết hợp ảo để tả các cảnh ngộ thực, tạo được một không gian chung cho nhiều ý niệm riêng...
Vương Chi Hoán người Tinh Châu, trong niên hiệu Thiên BẢo (742-755) cùng anh là Chi Hàm, Chi Bí nổi tiếng văn chương (có lẽ ba anh em sinh ra trong một gia đình trí thức, vì tên của họ là tên ba quẻ Trạch Sơn Hàn, Sơn Hoả Bí và Phong Thuỷ Hoán trong Kinh Dịch). Thơ văn của Vương Chi Hoán rất nhiều nhưng bị mất mát gần hết trong loạn An Sử , chỉ còn có sáu bài. Bài Cửu nhật tống biệt như sau:
Bằng đình tiêu sách cố nhân hy Hà xứ đăng cao thả tống quy Kim nhật tạm đồng phương cúc tửu Minh triêu ưng tác đoạn bồng phi (Đình hoang xơ xác người xưa ít Đâu chốn lên cao tiễn kẻ về Nay vẫn còn chung men rượu cúc Mai ngày đã hoá cánh bồng xoay)
Bài thơ như bức tranh chỉ chấm phá vài nét, mà tình bạn đưa nhau igữa ngày 9 tháng 9 - tiết Trùng dương hiển hiện. Ly đình xơ xác vì lòng người buồn bã, bạn bè thưa thớt vì là cảnh tiễn biệt, kẻ tiễn không phải không có chỗ lên cao nhìn theo mà thật lòng không muốn lên cao để nhìn theo người đi; và người đi chưa đi mà trong buổi tiệc họp mặt ngát mùi rượu cúc tiễn đưa đã thấp thoáng cánh cỏ bồng cô đơn xoay giữa gió thu, một cánh cỏ bồng mang mang nhớ nhung về sắc hoa vàng và mùi rượu cúc. Dự cảm về một quá khứ chưa xảy ra ấy trùm lên toàn bộ bài thơ, và nếu nhớ lại rằng Trung Hoa có phong tục họp mặt bạn bè để vui chơi trong ngàytiết Trùng dương, người ta sẽ thấy được ở đây nỗi xót xa của những người họp mặt giữa tiết Trùng dương tiễn bạn. Thực tế giống như tàn nhẫn ấy kết hợp với cái logic mờ về một thời gian ảo trong dự cảm nói trên đã xoá nhoà toàn bộ không gian cụ thể của một lần đưa tiễn, biến ngày Trung dương họp mặt buồn bã kia thành ngày Trùng dương tiễn biệt của muôn đời. Dường như với Vương Chi Hoán thì tiễn biệt là đề tài sở trường. Hãy thử đọc một bài thơ khác của ông, bài Tống biệt:
Dương liễu Đông môn thụ Thanh thanh giáp ngự hà Cận lai phan chiết khổ Chỉ vị biệt ly đa (Dương liễu ngòi đông mọc Xanh xanh ánh nước mây Gần đây vin bẻ khó Chỉ bởi lắm chia tay)
Tương tự bài Cửu nhật tống biệt, bài Tống biệt này cũng không nêu rõ ai tiễn ai đi, thậm chí cũng khó mà biết tác giả là kẻ bàng quang hay là người trong cuộc. Nhưng nếu bài thất ngôn trên chỉ nhắc qua một chốn ly đình không cụ thể để khắc sâu lên văn chương một ngày Trùng dương ly biệt, thì bài ngũ ngôn này lại quy tụ toàn bộ tứ thơ vào không gian cụ thể của một cây dương liễu để mở rộng tới vô cùng thời điểm của cuộc chia tay. Người Trung Hoa xưa thường bẻ cành liễu để tặng người lên đường vào lúc chia tay, nên những cuộc chia tay ở đây đều để lại dấu vết trên cây dương liễu. Vì biệt ly nhiều, nhiều người trước bẻ khiến cành liễu ít đi nên người sau khó bẻ, hay vì đã nhiều lần bẻ cành liễu để đưa những người đi không hẹn ngày trở lại nên mỗi lần giơ tay bẻ liễu là một lần nghe lòng ngần ngại xót xa? Ở đây cũng có một logic mờ tạo ra một không gian ảo, bởi cây dương liễu ghi dấu chỗ chia tay nơi cửa Đông giáp ngòi ngự (ngòi nước trong Cấm thành chảy ra) kia còn là tâm tình của người đưa tiễn; song trên chữ nghĩa thì nó quá cụ thể nên thời điểm chia tay thành ảo, và hình ảnh cây dương liễu nơi đưa tiễn trong bài thơ đã ngưng đọng lại như một hình tượng về tấm lòng e ngại cảnh chia tay...
Bài một chí Thứ sử Trừ Châu Trịnh Lư của Bạch Cư Dị cho biết ngaòi Vương Xương Linh; Vương Chi Hoán còn cùng Trịnh Lư, Thôi Quốc Phụ lấy thơ văn kết bạn, kẻ xướng người hoạ, nổi tiếng một thời.
Ngày gửi: 15/03/2008 08:34 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Diệp Đồng vào 09/04/2008 04:47
Khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân
...Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu Còn như vào trước ra sau Ai cho kén chọn vàng thau tại mình Từ rằng: Lời nói hữu tình Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân
Ngoài lối "đoạn chương thủ nghĩa" dùng cho câu đầu, trong đoạn đối đáp giữa Thuý Kiều và Từ Hải trên đây, Nguyễn Du đã dịch hai câu thơ của Cao Thích để nói lên sự cô đơn của nàng tài nữ Thuý Kiều trong việc tìm một kẻ sĩ tri âm và sự ngạc nhiên của người anh hùng Từ Hải khi giữa một cuộc đời mà sự tầm thường công cộng đã lên ngôi vẫn còn thấy được tại chốn yên hoa một người khác tục. Lời nói của Từ Hải trong đoạn thơ trên vốn lấy tích Bình Nguyên quân Triệu Thắng nước Triệu thời Chiến quốc than thở khi biết tài Mao Toại "Từ nay Thắng này không dám xem xét kẻ sĩ nữa"; và hai câu thơ ấy của Cao Thích là trong bài Hàm Đan thiếu niên hành.
Hàm Đan thành nam du hiệp tử Tự căng sinh trưởng Hàm Đan lý Thiên trường tung bác gia nhưng phú Kỷ xứ báo cừu thân bất tử Trạch trung ca tiếu nhật phân phân Môn ngoại xa mã trường như vân Vị tri can đảm hướng thuỳ thị Lệnh nhân khước ức Bình nguyên quân Quân bất kiến tức kim giao thái bạc Hoàng kim dụng tận hoàn sơ tác Dĩ tư cảm thán từ cựu du Canh ư thời sự vô sở cầu Thả dữ thiếu niên ẩm mỹ tửu Vãng lai xạ lạp Tây sơn đầu (Có chàng du hiệp ở Hàm Đan Tự khoe sinh trưởng tại thành nam Ngàn phen thua bạc nhà còn của Mấy chốn giết người thân vẫn toàn Sáo đàn ngày đêm rộn trong cửa Xe ngựa như mây giăng chật sân Chưa hay gan ruột cùng ai tỏ Khiến người lại nhớ Bình Nguyên quân Anh chẳng thấy lòng người hay khinh bạc Vàng vòng tiêu hết bạn thưa thớt Người xưa giờ đây chẳng muốn gặp Chuyện đời bỏ hết không mong cầu Cùng bọn thiếu niên uống rượu tốt Lại qua săn bắn nơi non sâu)
Cao Thích tự Đạt Phu, người Thương Châu. Năm hai mươi tuổi lên Trường An cầu quan không được như ý, tới ở vùng Lương Tống. Năm Thiên Bảo thứ 8 (749) thi đậu khoa Hữu đạo, ra làm Huyện uý Phong Khâu, mấy năm sau được Tiết độ sứ Lũng Hữu Kha Thu Hàn tiến cử làm Chưởng Thư ký ở Mạc phủ Tây Hà, sau lại theo Hàn về giữ trận ở Đồng Quan, Thích theo đường tắt chạy vào Thục theo Minh hoàng, được cử làm Tả Thập di, thăng Thị Ngự sử,rồi lần lượt giữ các chức Tiết độ sứ Hoài Nam, Thái tử Thiếu Thiêm sự, Thứ sử Bành Châu, Thục Châu, Tiết độ sứ Kiếm Nam, Tây Xuyên. Năm Quảng Đức thứ 2 (764) được triệu về kinh làm Thị lang bộ Hình, đổi làm Tả Tán kỵ Thường thị, tấn phong làm Bột Hải Huyện hầu. Tháng giêng năm Vĩnh Thái thứ 1 (765) chết ở Trường An, được truy tặng hàm Thượng thư bộ Lễ, thuỵ là Trung. Thích vốn lấy công danh tự hứa, nhưng lời nói nhiều khi quá thực tài, người đời sau chê là có chỗ kém.
Thích đến năm năm mươi tuổi mới bắt đầu làm thơ nhưng lập tức nổi tiếng, đặt câu lâậ tứ đều có ý khí hơn đời nên cứ viết ra bài nào thì người ta đua nhau truyền tụng bài ấy. Thích sống nhiều năm trong quân lữ, có hơn 40 bài thơ viết về đề tài biên tái được đánh giá rất cao về nghệ thuật, nổi tiếng nhất là bài Yên ca hành. Do hướng tới sự phi thường nên thơ ông nhiều khi man mác ý vị hoài cổ, như bài Yên ca hành kết bằng câu "Chí kim do ức Lý tương (tướng) quân" (Nay còn nhớ Lý tướng quân xưa) hay bài Phong Khâu kết bằng câu "Chuyển ức Đào Tiềm quy khứ lai" (Lại nhớ Đào Tiềm Quy khứ lai). Có bài Cổ Đại Lương hành viết về thành Đại Lương nước Nguỵ thời Chiến quốc rất thê thiết
Cổ thành thương mang đa kinh trăn Khu mã hoang thành sầu sát nhân Nguỵ vương cung quán tận hoà thử Tín Lăng tân khách tuỳ khôi trần ...Bạch bích hoàng kim vạn hộ hầu Bảo đao tuấn mã điền sơn khâu Niên đại thê lương bất khả vấn Vãng lai duy hữu thuỷ đông lưu (Nước xưa mờ mịt đầy gai góc Đi giữa thành hoang buồn muốn khóc Tân khách Tín Lăng thành bụi bay Cung điện Nguỵ vương đầy lúa mọc ...Ngọc trắng vàng ròng khua giữa gió Ngựa hay đao tốt rải quanh đồng Ngày tháng thê lương ai biết được Lại qua duy có nước về đông)
Thương Phan nói "Cao Thích tính phóng túng, không câu nệ tiểu tiết. Thẹn vì khoa danh tầm thường, náu vết học rộng, tài danh truyền xa. Thơ Thích phần lớn là lời tâm huyết, lại có khí phách, nên trong triều ngoài nội đều rất tán thưởng, như những bài Yên ca hành có rất nhiều câu hay". Bi Nhật Hưu rất thích hai câu "Chưa hay gan ruột cùng ai tỏ, Khiến người lại nhớ Bình Nguyên quân" thường ngâm mãi không chán, dường như những kẻ tài sĩ trong đời dù thoả lòng hay thất ý cũng đều giữ riêng cho mình một khẩu phần cô đơn...
Lý Quý Lan giỏi thơ ngũ ngôn, có bài Ký Hàn Hiệu thư gởi Hiệu thư lang Hàn Bát rằng:
Vô sự Ô Trình huyện Ta đà tuế nguyệt dư Bất tri Lan các sứ Tịch mịch ý hà như? Viễn thuỷ phù tiên trạo Hàn tin bạn sứ cư (xa) Nhân quá Đại Lôi ngạn Mạc vong bát hàng thư
(Huyện Ô Trình rảnh rỗi Năm tháng luống ơ thờ Chẳng biết người văn nhã Cô đơn ý có mơ? Chèo tiên khua nước vằng Xe sứ mỏi sao mờ Qua bến Đại Lôi ấy Đừng quên gửi ít thơ)
Bài thơ thật độc đáo, không phải vì lời lẽ của nó mà vì nó là của một người đàn bà; hơn thế nữa, một người đàn bà đã bộc lộ cái tâm tính như một thiên tư mà các chuẩn mực đạo đức thời phong kiến coi là mất nết ngay từ thưở còn thơ ấu. Khi Quý Lan năm sáu tuổi, được cha bế ra sân chơi, đã làm bài Tường vi (Dây tường vi) trong có hai câu kết như sau:
Kinh thời vị giá khước Tâm tư loạn tung hoành (Qua mùa chưa bỏ giàn leo cũ Mối ý đan dây rối dọc ngang)
Người cha thấy lời thơ, giận dữ nói "Con bé này ắt sẽ là hạng đàn bà mất nết"; và nói một cách nhẹ nhàng thì bài thơ gởi Hàn Bát kia quả cũng cho thấy đây là một phụ nữ chủ động trong quan hệ, bạo dạn trong ngôn ngữ, ngút ngàn tình ái và ngùn ngụt yêu đương thật. Chứ phụ nữ bình thường chắc không ai dám nói bằng văn bản với đàn ông rằng tôi ở riêng, tôi chán đời, bạn văn độc thân ước mơ gì không, cứ làm tới đi (Chèo tiên khua nước vắng) vì tôi đang nguyện vọng (Xe sứ mỏi sao mờ)...Có điều chuyện tình ái vốn nó bất chấp tuổi tác, mà cho dù Quý Lan có thiên về khía cạnh vật chất của vấng đề thì cũng chẳng phải tội lỗi gì, chẳng qua vì nàng chẳng may không có địa vị như những Vũ Tắc Thiên, Thái Bình công chúa, Quắc quốc phu nhân để nuôi một bọn đàn ông cung ứng tình dục thì đành chịu mang tiếng mất nết mà thôi. Vả chăng trong bài thơ Tống Hàn Bát chi Giang Tây (Đưa Hàn Bát đi Giang Tây) chia tay người tình trẻ tuổi sau này, nàng còn bộc lộ một tình nghĩa thực sự chân thành qua những lời thiết tha thương mến:
Tương khan chỉ dương liễu Biệt hận chuyển y y Vạn lý Giang Tây thuỷ Cô chu hà xứ quy Bồn Thành triều bất đáo Hạ Khẩu tín ưng hy Duy hữu Hành Dương nhạn Niên niên lai khứ phi
(Nhìn nhau chỉ dương liễu Lá động hận chia ly Dòng thẳm Giang Tây chảy Thuyền côi lạ chốn đi Bồn Thành không sóng vỗ Hạ Khẩu ít tin về Duy nhạn Hành Dương cũ Năm năm đây đó bay)
Cao Trọng Vũ, một nhà phê bình văn học thời Đường viết về Quý Lan như sau "Kẻ sĩ có trăm nết, đàn bá có bốn đức, Quý Lan thì không thế. Dáng vẻ đã ngang tàng, ý thơ cũng phóng đãng, từ Bảo Chiếu về sau ít có hạng người như vậy. Như câu "Chèo tiên khua nước vắng. Xe sứ mỏi sao mờ" thật đã đạt tới chỗ toàn mỹ của thơ ngũ ngôn. Trên so với Ban Tiệp dư (Ban Chiêu thời Hán) thì không đủ, dưới so với Hàn Anh (Hàn Lan Anh đời Nam Tề) thì có dư. Không kể tuổi tác, cũng là một bà già hơn người". Ngắn gọn hơn, một nhà thơ đương thời là Lưu Trường Khanh chỉ nói "Lý Quý Lan là thi hào trong đám phụ nữ".