Trang trong tổng số 1 trang (7 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Trước hêt xin lỗi vì mình không có thời gian hỏi cách giải quyết từ các ĐHV của Thi Viện, nhưng vì đang "rất có hứng", nên không muốn cụt hứng và đành mạo muội mở riêng một chủ đề này để chép lại bài thơ của Phạm Sư Mạnh mà theo Lê Quý Đôn một nhà bác học, sử học, toán học,....thì bài thơ này "thất lạc" đã lâu. Vậy mong Ban ĐH sẽ chuyển tiếp bài thơ này về đúng vị trí của nó. Dưới đây là nguyên văn(bản dịch và chú thích)của Lê Quý Đôn trong Kiến Văn Tiểu Lục, mục Thiên chương(Văn Thơ, Từ Lệnh), Lê Quý Đôn Toàn tập tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội-1977.

..." Hồi quốc sơ, Phan Phù Tiên(1) chép những bài thơ của vua chúa, công khanh và sứ thần về đời nhà Trần, lại chép những bài ngự chế của Cao đế, Văn đế(2) cùng những bài ngâm vịnh của các nho thần về bản triều, thành quyển Việt âm thi tập; Dương Đức Nhan(3) lại chép nối theo những bài không có trong Việt âm thi tập của Phan Phù Tiên làm Tinh tuyển thi tập; Hoàng Đức Lương(4) lại chép nối theo những bài còn thiếu trong hai tập kê trên làm Trích diễm thi tập. Hợp cả ba tập thơ ấy mà xem, thì văn thơ nước Nam có thể tìm được đầy đủ. Nhưng vẫn còn có chỗ bỏ sót, như bài thơ của Phạm Sư Mạnh(5) đề núi Thạch-môn(6) theo cổ thể, nay vẫn còn khắc vào đá, trong sách An-nam chí của người nhà Minh có chép bài thơ này, nhưng bỏ mất một nửa. Bài ấy như sau:

Hành dịch đăng gia sơn(7)
Kiều thủ vạn lý(8) thiên.
Đô bằng Nam minh ngoại,
Tân nhật Đông nhạc tiền.
Yên phụ(9) thiên(10) nhất ác,
Tượng đầu(11) nhận(12) cửu thiên.
Tằng tằng Tử tiêu vân,
Hội phỏng Yên kỳ tiên.
Hung hung Bạch-đằng(13) đào,
Tưởng tượng Ngô-vương(14) thuyền.
Ức tích trùng hưng đế(15)
Diệu chuyển khôn, cán kiền.
Hải phố thiên môn đồng,
Giáp môn vạn tinh chiên.
Phản chưởng điện ngao cực,
Vãn hà tẩy tinh chiên.
Chí kim tứ hải dân
Do ký cầm Hồ(16) niên.

Tạm dịch:

Núi quê hành dịch trèo qua,
Ngửa trông trời thẳm bao la muôn trùng.
Biển Nam chim lớn vẫy vùng,
Non Đông mừng đón vừng hồng ló ra.
Đỉnh Yên phụ trời xa với được,
Ngọn Tượng đầu nhận ước chín nghìn.
Tử tiêu mây bọc liền liền,
Gặp Yên kỳ hỏi lên tiên đường nào?
Bạch -đằng lồng lộng ba đào.
Tưởng thuyền Ngô chúa thét gào năm xưa.
Trùng hưng nhớ đức hai vua.
Xoay vần trời đất có thừa tài hoa.
Ngàn thuyền Hải phố xông pha,
Giáp môn hàng vạn cờ đà tung bay.
Dựng cột trời, trở bàn tay,
Nước sông rửa sạch mọi bầy tanh hôi.
Đến nay bốn biển hoan hô.
Còn ghi công đức "cầm Hồ" năm nao!

Phạm Sư Mạnh.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

(tiếp bài thơ đề núi Thạch môn của Phạm Sư Mạnh:

Hành dịch đăng gia sơn (7)
Kiều thủ vạn lý (8) thiên.
Đô bằng Nam minh ngoại,
Tân nhật Đông nhạc tiền.
Yên phụ (9) thiên (10) nhất ác,
Tượng đầu (11) nhận (12) cửu thiên.
Tằng tằng Tử tiêu vân,
Hội phỏng Yên kỳ tiên.
Hung hung Bạch-đằng (13) đào,
Tưởng tượng Ngô-vương (14) thuyền.
Ức tích Trùng hưng đế (15)
Diệu chuyển khôn, cán kiền.
Hải phố thiên môn đồng,
Giáp môn vạn tinh chiên.
Phản chưởng điện ngao cực,
Vãn hà tẩy tinh chiên.
Chí kim tứ hải dân
Do ký cầm Hồ (16) niên.

Tạm dịch:

Núi quê hành dịch trèo qua,
Ngửa trông trời thẳm bao la muôn trùng.
Biển Nam chim lớn vẫy vùng,
Non Đông mừng đón vừng hồng ló ra.
Đỉnh Yên phụ trời xa với được,
Ngọn Tượng đầu nhận ước chín nghìn.
Tử tiêu mây bọc liền liền,
Gặp Yên kỳ hỏi lên tiên đường nào?
Bạch -đằng lồng lộng ba đào.
Tưởng thuyền Ngô chúa thét gào năm xưa.
Trùng hưng nhớ đức hai vua.
Xoay vần trời đất có thừa tài hoa.
Ngàn thuyền Hải phố xông pha,
Giáp môn hàng vạn cờ đà tung bay.
Dựng cột trời, trở bàn tay,
Nước sông rửa sạch mọi bầy tanh hôi.
Đến nay bốn biển hoan hô.
Còn ghi công đức "cầm Hồ" năm nao!

Dưới đây là các chú thích của bài thơ trên:
(1) Phan Phù Tiên: Người xã Đông ngạc (làng Vẽ), huyện Hoài Đức tỉnh Hà Đông, đỗ khoa minh kinh măm Thuận -thiên thứ 2(1429), tác giả bộ Đại Việt Sử ký.
(2)Cao đế: Tức Thái tổ Cao hoàng đế, miếu hiệu của Lê Lợi. Văn đế: tức Thái tông Văn hoàng đế, miếu hiệu của Lê Nguyên Long, vua thứ hai triều nhà Lê.
(3) Dương Đức Nhan: người xã Hà Dương, huyện Vĩnh-bảo tỉnh Hải dương, đỗ tiến sĩ năm Quang thuận thứ 4 (1463) làm quan đến Thị Lang.
(4) Hoàng Đức Lương: người xã Ngọ-cầu, huyện Gia-lâm (Bắc ninh), đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất (1478), năm Hồng đức, đến năm Mậu Thân (1488) phụng mệnh sung sứ bộ.
(5) Phạm Sư Mạnh: tên tự là Nghĩa-phu, hiệu Uý -trai, biệt hiệu là Giáp-thạch, người xã Giáp-sơn, huyện Kinh-môn, tỉnh Hải-dương cũ, đỗ thái học sinh, làm quan 3 triều Minh-tông, Hiến-tông và Dụ-tông đời nhà Trần đến Nhập nội hành khiển, phụng mệnh sang sứ nhà Nguyên biện bạch về việc cột đồng.
(6)Núi Thạch-môn: Ở huyện Giáp-sơn (nay là huyện Nam-sách) quê hương Sư Mạnh, nên ông gọi là "gia sơn".
(7) Gia-sơn: xem chú thích (6)trên.
(8) chữ "lý" trong Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú chép là "trung".
(9) Núi Yên phụ: xã Tuyên-xá huyện Giáp-sơn, cao 320 trượng (Đại Nam nhất thống chí)
(10)Chữ "thiên" trong Lịch triều hiến chương loại chí chép là"sơn".
(11) Tượng-sơn có một tên nữa là núi Yên tử. Yên Kỳ sinh đắc đạo ở tại đấy( chú thích này là dịch những chữ chua trong nguyên văn)
(12) Nhận: có thuyết nói là 8 thước cổ, có thuyết nói 7 thước, nhưng ở đây, ta chỉ nên hiểu chung chung, "nhận" là tên một thứ dùng để đo từ thời cổ. Câu này và câu trên, tác giả hình dung hai ngọn núi cao, ý nói lên núi Yên phụ thì tay có thể với được trời và núi Tượng đầu cao đến chín ngàn nhận.
(13) Sông Bạch đằng: thượng lưu từ địa phận tỉnh Bắc ninh, phân lưu vào tỉnh Hải dương, chia ra làm hai chi, rồi hợp lại ở địa phận xã Đoan lễ, làm thành sông Bạch đằng, đổ ra cửa biển Nam triệu> Con sông này có nhiều lịch sử về việc chống giặc ngoại xâm.
(14) Ngô vương: tức Ngô Quyền. Thời Ngũ-đại, Trung quốc, chúa Nam-Hán sai con là Hoằng Thao đem quân sang xâm lấn nước ta, Ngô Quyền đã đánh tan quân xâm lược Nam Hán ở sông Bạch -đằng, tự lập làm vương (937-944), nên gọi là Ngô-vương.
(15) Trùng hưng đế: tức vua Nhân-tông nhà Trần, sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Nguyên, Nhân tông đổi niên hiệu là Trùng-hưng (1285-1293).
(16) Hồ: chỉ quân xâm lược nhà Nguyên. Hai chữ "cầm Hồ" trong bài thơ này là lấy điển ở câu thơ "cầm Hồ Hàm-tử-quan" của Trần Quang Khải.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Xin lỗi vì cháu không hiểu rõ ý của chú lắm. Nếu cháu hiểu đúng thì chú định thêm bài thơ này vào mục tác giả Phạm Sư Mạnh?
Nếu vậy thì bài thơ này đã có ở đây, có lẽ chú không tìm thấy: http://www.thiv...S_qzDS441KtnEVw
Cháu sẽ xem thêm các chú thích mới, so sánh vả bổ sung.
Cảm ơn chú.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Xin lỗi bạn Điệp. Quả là mình mắt quáng gà hay sao ấy mà không thấy bài thơ đề Thạch môn của PSM đã có trong TV. Làm tốn thì giờ của bạn quá rồi. Mình sẽ chuyển bản dịch mới và các chú thích vào phần "thêm bản dịch" được không bạn? Nhiều khi chưa "rà" đã "lẫn", mong bạn thông cảm nhé.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Tất nhiên là được ạ :)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Còn bài thơ này của Phạm Sư Mạnh:

咏雲喦山

扪参儮井上雲端 ,
身在碧宵雲漢間 。
下視鲸濤天萬里 ,
長天浮水水浮山 。

Vịnh Vân Nham sơn

Môn Sâm (1), lịch Tỉnh (2) thướng vân đoan,
Thân tại bích tiêu Vân Hán (3) gian.
Hạ thị kình đào thiên vạn lý,
Trường thiên phù thuỷ, thuỷ phù san.

(1) Sâm: sao Sâm
(2) Tỉnh: sao Tỉnh
(3) Vân Hán: sông ở trên trời, do các vì sao hợp lại, vắt ngang giữa không gian

Núi Vân Nham ở xã Thạch Giản, phía nam huyện Nga Sơn trấn Thanh Hoá.
Bắt đầu từ núi Kim Âu huyện Vĩnh Lộc thẳng xuống, đột lên một ngọn, núi
đất lẫn đá, dựng đứng như vách, phong cảnh hùng vĩ. Phía trước núi là bến sông.

Nguồn: Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hoá, Á Nam dịch, Nha Văn Hóa
Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960

Bản dịch của Á Nam:

Vịnh núi Vân Nham

Vin Sâm, trèo Tỉnh bước mây giồn,
Mình ở lưng chừng Vân Hán luôn.
Cúi ngắm tăm kình nghìn vạn dặm,
Trời dài dâng nước, nước dâng non.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Chào bác, bài thơ bác gửi trên là bài thơ ở cuối của bài này: http://www.thiv...jnn--sal5StRnKg
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài viết)
[1]