Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ
Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ
☆☆☆☆☆ 7034.10
Nước:
Việt Nam (
Hiện đại)
180 bài thơ,
5 bài dịch
169 người thích: Thichanlac, Sal, Hai Lúa, Hoa Phong Lan, baobao, MaiHoa, mio angelo, banglangtim232, Phương ANINO, Người Kinh Bắc, thichmoiloaitho, kyon91, Nguyễn Bảo Ngọc, Nguyễn Dũng, Nguyen Tran Mai Dinh, NanLan, The Twins, trần kim tiền, dop, bobynguyen, norz, Hồng Ngọc ^_^, truongthitoan, rong_ha, Thi sĩ Bình Minh, Fon, minhhu, tichmich, Zanld, leuytin, aomong2007, thutrinh, tre_no1, huhong, xinalu, Mạnh Hùng 1994, Lá úa, binhnn208, haidang179, TANova9x, peihoh, Don Thảo, PTQ, congdan9x, Hùng ĐG, minh nguyen, Anh Lực, lexuyen80, hoabeo, SophieDuong, Quỳnh Giao, Adam_guitar_flamenco, thiên_di, vitngok, h.van, Lăng Hải Bình, Hạ đỏ, Gió Đông Ngân, skl, Huy Tráng, mâytrắng, thicam1, huongtb, Kieu_May, Thanh Nguyên, Michael Joey Hobs, toi ten la....., duonganhthu93, Cao Tứ Hải, Loan25, sn0w_ang3l_090, quynhluan, 1235, motminh_611, LêthuThỏ, JennyChiem, Teal Aquamarine, kanni, ♥Tan Vào Gió♥, LCHD, Goodlucktoyou, minapilow, maihuongqth, TuyênQuang, Nguyễn Thị Phuc An, Lam Nguyệt, Tre Xanh Que Huong, sóicôđộc, Strawberry, Bad Boy, HUY HOÀI TỬ, hoalucbinh, Tô Tiến Đạt, Minh Nhân, Fumbler, Jean Phoenix, cameron, Mỹ Hằng Trương, thi sĩ cuồng si, +Lạc Giữa Nhân Gian+, SeiTominaga, trâm phan, Týp Phờ Nờ, binhhotbit, Phan Ngọc Thi, windmiu, Hiền Tư, Cầm Thanh, Loin Coin, Kelvin Kingleon, Nguyễn Tường Vi, Dã Tràng Cát, Thụy Viên, Nguoicuatudo, Syaoran Lord, nhiphuong2003, Phạm Nguyễn Thúy Vi, anhlng, Tenn, Noble, Thiều Trang, Nga Nguyễn, Lệ Tương Tư, thien9923, ylang2412, phuonglathu, Vũ Sa Nhã Đoan, Duy Phi, Tâm Đoan, Ulrick, phongkim, Minhhien123, ngô cẩm ly, Phương Hoa Phan Vũ, Lliz, Nini, Sunny Vũ, Cỏ Rừng, Hoa mùa xuân, Nguyen Bui, Chi Hoang Mai, Việt Hương, Sophia chan, Do Tram Anh, Le Ung, Phuongg Ha, Dang Hong Linh, vothicamgiang222, Huu Hue Quach, Mirai Mih Aurora, Cherry blossom, Thanh Khương, Hong Linh, Aainhthm, Lnnp7A1ltv, Thiên Phương, uyenisi, Lười Boiz, Chu Tiến Mạnh, NgoPhuc, Thao Phuong, Lộ Hàn, NgocAnhLe, Lanh, onggiaongheo, chuthienxuyen@gmail.com, Fim, nevertoheaven_ldr, ĐD
Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Tạo ngày 10/02/2005 16:28 bởi
Vanachi, đã sửa 5 lần, lần cuối ngày 25/06/2008 11:07 bởi
Vanachi Xuân Quỳnh (6/10/1942 - 29/8/1988) tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh tại xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là phường La Khê, quận Hà Đông, Hà Nội), mất trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi. Chị vốn là diễn viên múa từ năm 13 tuổi, có thơ đăng báo năm 19 tuổi, trở thành nhà thơ chuyên nghiệp sau khi qua lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ khoá đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam (1962-1964). Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ hàng đầu của nửa cuối thế kỷ 20.
Chủ đề thơ Xuân Quỳnh thường là những vấn đề nội tâm: kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu gia đình... Hiện thực xã hội, sự kiện đời sống hiện diện như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không là thứ tháp ngà xa rời đời sống. Thơ chị là đời sống đích thực, đời sống của chị trong những năm đất nước còn chia cắt, còn chiến tranh, còn nghèo, còn gian khổ, là những lo toan con cái, cơm nước, cửa nhà của một người phụ nữ, người phụ nữ làm thơ thường ngược xuôi trên mọi ngả đường bom đạn. Xuân Quỳnh không làm ra thơ, không chế tạo câu chữ mà chị viết như kể lại những gì chị đã sống, đã trải. Nét riêng của Xuân Quỳnh so với thế hệ nhà thơ hiện đại cùng thời chính là ở khía cạnh nội tâm đó. Thơ chị là thơ mang tâm trạng. Thời ấy nhiều bài thơ thiên về phản ánh sự kiện, cốt để được việc cho đời, còn tâm trạng tác giả thường là tâm trạng chung của xã hội, vui buồn tác giả hoà trong vui buồn chung của công dân. Tâm trạng thơ Xuân Quỳnh là tâm trạng nảy sinh từ đời sống của chính chị, từ hoàn cảnh của riêng chị. Viết trên đường 20 là bài thơ chiến tranh nhưng lại mang nỗi lòng trăn trở xao xác của một người đang yêu. Có bài bề bộn chi tiết hiện thực như một ký sự. Những năm ấy, đúng là ký sự về đời sống Hà Nội những năm chống Mỹ, nhưng nó không thành ký mà vẫn là thơ do nỗi lòng riêng của tác giả đã tạo nên một mạch trữ tình xâu chuỗi các chi tiết rời rạc của ngày thường lại, tổ chức nó thành kết cấu của bài thơ. Xuân Quỳnh có tài toả lên các chi tiết ngẫu nhiên quan sát được từ đời sống một từ trường cảm xúc của nội tâm mình, biến các chi tiết đời trở nên thơ, có sức gợi, sức ám ảnh kỳ lạ (Trời trở rét, Không đề, Gió Lào cát trắng, Mùa hoa doi, Hoa cỏ may...).
Thơ Xuân Quỳnh giàu tình cảm, tình cảm sâu và tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau tình cảm ấy lại là tư tưởng có tính khái quát, triết lý (Cơn mưa không phải của mình, Đồi đá ong và cây bạch đàn, Chuyện cổ tích về loài người, Những người mẹ không có lỗi...) Đấy là những triết lý nảy sinh từ đời sống, nó có tính thực tiễn, giúp ích thật sự cho người đọc nhận thức và xử lý việc đời, không phải thứ triết lý tư biện, viễn vọng mà chẳng dùng được vào việc gì.
Đề tài, đối với Xuân Quỳnh, không phải là quan trọng. Điều chị quan tâm là chủ đề. Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng có tứ, chị dùng tứ để bộc lộ chủ đề. Đây là một đóng góp đáng quý của Xuân Quỳnh vì giai đoạn ấy thơ chúng ta rất lỏng về tứ. Xuân Quỳnh có năng khiếu quan sát. Chị quan sát bằng tất cả giác quan và phong phú trong liên tưởng. Chi tiết vốn quen thuộc bỗng trở nên mới lạ, tạo ý vị cho câu thơ. Một màu cỏ mùa xuân: “Cỏ bờ đê rất lạ/ Xanh như là chiêm bao”. Tiếng mưa trên lá cọ: “Mưa trên cọ bàng hoàng rồi vụt tạnh”.
Cũng có thể vì có tài quan sát mà ở một số bài Xuân Quỳnh ham tả, ham kể. Kể có duyên nhưng vẫn làm loãng chất thơ. Những bài thơ dài của Xuân Quỳnh thường dài vì rậm chi tiết.
Tác phẩm:
Thơ:
- Tơ tằm, chồi biếc (thơ in chung, NXB Văn học, 1963)
- Hoa dọc chiến hào (NXB Văn học, 1968)
- Gió Lào cát trắng (NXB Văn học, 1974)
- Lời ru trên mặt đất (NXB Tác phẩm mới, 1978)
- Bầu trời trong quả trứng (thơ thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1982)
- Sân ga chiều em đi (NXB Văn học, 1984)
- Tự hát (NXB Tác phẩm mới, 1984)
- Hoa cỏ may (thơ, 1989, Giải thưởng văn học 1990 của Hội Nhà văn)
- Truyện Lưu, Nguyễn (truyện thơ, NXB Kim Đồng, 1983)
- Thơ viết tặng anh (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1988)
Dịch:
- Bố ơi, bố làm con sợ đi (truyện tranh, Tamara Đăngblông, NXB Kim Đồng, 1989)
Truyện:
- Bao giờ con lớn (truyện tranh, NXB Kim Đồng, 1975)
- Mùa xuân trên cánh đồng (NXB Kim Đồng, 1981)
- Bến tàu trong thành phố (NXB Kim Đồng, 1984)
- Vẫn có ông trăng khác (tập truyện ngắn, NXB Kim Đồng, 1988)
Xuân Quỳnh (6/10/1942 - 29/8/1988) tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh tại xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là phường La Khê, quận Hà Đông, Hà Nội), mất trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi. Chị vốn là diễn viên múa từ năm 13 tuổi, có thơ đăng báo năm 19 tuổi, trở thành nhà thơ chuyên nghiệp sau khi qua lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ khoá đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam (1962-1964). Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ hàng đầu của nửa cuối thế kỷ 20.
Chủ đề thơ Xuân Quỳnh thường là những vấn đề nội tâm: kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu gia đình... Hiện thực xã hội, sự kiện đời sống hiện diện như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh hướng nội, rất tâm trạng cá…
Thơ dịch tác giả khác