Te półki ocalały mi sprzed wojny
z dziurawymi od kul książkami...
Czasami los wojny jest hojny,
więc dlatego jestem między wami.
Wspominam mitów niedostatek
i średniowiecza łgarstwo –
cóż mi zostało na ostatek
jako lekarstwo?
Nie róg Rolanda, nie miecz Don Kichota
i nie wędrówki Kandyda,
dzielna kiedyś książek piechota
nie na wiele mi się dziś przyda;
nie Byron, nie Szekspir, nie Goethe,
ich poezja wzniośle-surowa,
nie Norwid nawet, nie te
zostały mi słowa,
Tego wszystkiego uczyłem się na pamięć
z woli nieprzymuszonej,
a potem przyszła jedna zamieć, druga zamieć
i pamięć zabitej żony...
Nie, nie to mi zostało z książek
Ocalałych,
Ale jakiś przewspaniały związek,
Który łączy świat cały.
Ja na taborach radzieckich
w dziewiętnastym, dwudziestym (ledwie przypominam)
czytałem (podporucznik) prawie dzieckiem
książki Lenina...
...Noc już świtem farbuje
i życiu już późna pora...
Towarzysze, dziękuję
Za pocałunek Almanzora.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi hongha83 ngày 22/06/2012 08:59
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi hongha83 ngày 22/06/2012 09:20
Các ngăn sách qua chiến tranh còn sót lại
Trên sách còn vết tích đạn bom
Có lắm lúc chiến tranh cũng không ác liệt
Nên tôi còn ở lại với sách tôi
Bao thiếu sót tôi tìm ra trong thần thoại
và chuyện hoang đường thời trung cổ đã qua
Trong sách cũ còn gì sót lại
Để dùng như một vị thuốc cho ta?
Không phải tiếng còi của Rôlăng, không phải giáo dài của Đông Kisốt
Cũng không phải cuộc du hành của anh chàng Căngđích
Bước đi anh dũng từ xưa trong bao nhiêu cuốn sách
Không giúp được nhiều cho công việc hôm nay
Thơ của Bâyrơn, của Sếchpia, của Gớt
Có lắm điều cao nhã, trang nghiêm
Cũng như thơ của Nôrơvít
Không phải những lời còn đọng lại trong tôi
Ý tôi thích không ai bắt buộc
Tôi học thuộc lòng tất cả thơ trên
Nhưng sau đó giông bão cứ đổ xô ập đến
Và người vợ tôi bị giết, khó mà quên
Không, trong đống sách kia còn sót lại
làm ta sống dễ chịu hơn nhiều
Như có một sợi dây tuyệt diệu
Gắn chặt thế gian này lại với nhau
Trong đồn trại của Liên Xô
năm 1920 (tôi nhớ lại)
Tôi (thiếu uý) đã đọc như đứa trẻ
Đọc mải mê những tác phẩm của Lê Nin
Đêm vừa dứt, vừng đông đã ló
và đời tôi đến lúc già rồi
Hỡi các đồng chí! Tôi nhớ ơn này mãi mãi
Như người thời xưa đã được vua hôn
Nguyên tác bài thơ gồm 9 khổ thơ. Người dịch mới chỉ dịch 8 khổ (khổ 1-2-3-4-6-7-8-9) và dịch thiếu khổ thứ 5. Nguyên văn khổ thơ thứ 5 như sau:
nie zostały nawet słowa Słowackiego,
kiedy mówił: „...pawiem i papugą...”
(a przecież od niego, od niego
uczyłem się tak długo...).