Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Vũ Hoàng Chương
Đăng bởi Vanachi vào 15/03/2007 16:40
祥雲滿坐月杯明,
嬉祝春開夜半瓊。
東柳西桃雙盡美,
秦桑燕草一河青。
儘教故國懷金粉,
自有狂言出石屏。
頹臥與沙場醉臥,
古來誰也占高名?
Tường vân mãn toạ nguyệt bôi minh,
Hy chúc xuân khai dạ bán quỳnh.
Đông liễu tây đào song tận mỹ,
Tần tang Yên thảo nhất hà thanh.
Tẫn giao cố quốc hoài kim phấn,
Tự hữu cuồng ngôn xuất thạch bình.
Đồi ngoạ dữ sa trường tuý ngoạ,
Cổ lai thuỳ dã chiếm cao danh?
Mây lành đầy khắp chỗ ngồi, chén rượu sáng lóng lánh,
Đùa vui chúc cho phút giao thừa xuân sang, nhiều điều tốt đẹp.
Liễu phía Đông và đào phía Tây cả hai đều đẹp tuyệt,
Dâu đất Tần và cỏ đất Yên, một dòng sông cùng xanh.
Dẫu cho vẫn nặng lòng nhớ thương hương phấn nước cũ,
Song đã có một lời ngông vọng lên giữa núi dựng như thành.
Giữa kẻ say nằm nghiêng ngả và người say lăn nơi sa trường,
Xưa nay ai lưu danh cao hơn ai?
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 16/03/2007 16:40
Có 1 người thích
Bạn đầy mây, chén đầy trăng,
Xuân vào đêm, giữa lòng băng nở quỳnh.
Liễu tơ đào gấm như tranh,
Dâu Tần biếc, cỏ Yên xanh, một trời.
Quê xưa phấn rụng vàng rơi
Có nghe vách đá vang lời hỏi duyên:
Say nằm trước ngõ là tiên,
Hoặc say nằm cát ngoài biên mới hào?
Gửi bởi Vanachi ngày 16/03/2007 16:41
Có 1 người thích
Mây quấn ngôi thơ, rượu rực ngời,
Đêm quỳnh chén ngọc chúc xuân tươi.
Đông tây đào liễu hơ hơ hớ,
Dâu cỏ Yên Tần phới phới phơi.
Tiếc nhuỵ - hoa nghiêng đài nhớ nước,
Cuồng ngâm - thơ dựng vách in trời.
Thơ Say khướt hỏi người Chinh Chiến:
Tuý ngoạ sa trường, ai nhượng ai?
Gửi bởi Vanachi ngày 16/03/2007 16:43
Có 1 người thích
Chỗ ngồi mây bọc, chén long lanh,
Đùa khấn xuân sang: đêm tốt lành.
Đào, liễu Đông Tây đều tuyệt sắc,
Cỏ, dâu Tần Sở thảy tươi xanh.
Phấn hương nước cũ chưa khuây nhớ,
Vách dựng lời ngông đã trót thành.
Say khướt văn nhân, say tráng sĩ,
Xưa nay ai dễ chiếm cao danh?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 05/04/2014 15:51
Có 1 người thích
Đầu năm mới 2007 tôi nhận được một món quà từ một người bạn ở Pháp: nhà phê bình Đặng Tiến. Đó là bức ảnh chụp lại một bài thơ bằng chữ Hán của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương mà sinh thời Vũ tiên sinh chưa bao giờ cho công bố. Đặng Tiến nhờ tôi phiên âm, dịch nghĩa và nếu có thể dịch ra thơ, tiện cho bạn đọc xa gần thưởng lãm. Tôi vui mừng mở file ảnh do bạn gửi và nhận ra đây quả là món quà quý, bởi nó là thủ bút của Vũ Hoàng Chương. Theo Đặng Tiến, bài thơ được thi sĩ viết trên bìa tờ báo Nhà văn số xuân Ất mão (1975) và vì viết trên bìa một tờ báo, anh nghĩ rằng bấy giờ đã là sau tháng Tư 1975 lúc mà giấy trắng khổ lớn - đúng hơn là giấy xuyến chỉ - trong nhà họ Vũ bắt đầu khan hiếm. Nhưng thực tế, nội dung bài thơ lại cho thấy Vũ quân đã sáng tác nó vào đêm trừ tịch năm Ất Mão. Có lẽ việc ông thuận tay viết lại trên bìa số xuân báo Nhà văn tức sau Tết âm lịch là việc làm tuỳ hứng, không có gì bất thường. Nhưng số phận bài thơ khá kỳ bí: nó lọt vào phía sau bức ảnh Vũ Hoàng Chương chụp ở tuổi 24 như một tấm giấy lót và đặt trên bàn thờ trong nhiều năm. Khi Đặng Tiến về Việt Nam (tôi nhớ đâu như năm 1979 thì phải vì anh có đến thăm Viện Văn học), người vợ cố thi sĩ đã trân trọng mang bức ảnh tặng anh kể cả khung, và anh cũng trân trọng/vô tình để nguyên trong khung ảnh, gìn giữ nó từ bấy đến nay.
Xem xét bài thơ trong khuôn hình của tấm ảnh scaner ta càng có một ấn tượng lý thú. Đúng là một bài thơ xuân được viết trên bìa một tờ báo xuân có màu hồng điều. Chữ của Vũ Hoàng Chương không thuộc hàng thư pháp nổi danh nhưng rất phóng túng. Trong số các thi nhân thơ mới có dễ ông là một trong dăm bảy người sành chữ Hán và thích chơi thư pháp. Bài thơ có những chữ viết thảo, tiếc thay lại là thảo “lòi tói”, người nhận ảnh đọc đi đọc lại mà vẫn bí đến 3 chữ. Phải nhờ bạn Phạm Văn Ánh - một bạn trẻ rất giỏi nhận mặt chữ thảo - đến cùng luận với nhau mới tạm nhất trí về ba chữ ấy: đó là chữ khúc (chữ cuối tiêu đề), chữ giao (chữ thứ hai câu 5) và chữ kim (chữ thứ sáu câu 5). Những chữ khác như chữ hồi (chữ thứ sáu câu 4), chữ tuý (chữ thứ sáu câu 7) dù vẫn chưa thông cũng không còn tìm ra cách đọc nào khác. Một điều lạ là giữa tên ghi cuối bài thơ và tên khắc trong ấn triện đóng bên cạnh có khác nhau: tên cuối bài thơ là Vũ Hoàng Chương trong khi tên trong ấn triện lại là Loạn Trung Bút. Cho đến nay chỉ mới thấy ở trang đầu cuốn Rừng phong, Nxb. Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971, dưới hai câu chữ Hán viết toàn thảo (cũng là thủ bút của tác giả):
冷 桂 香 沈 蒼 海 月Tác giả tự dịch:
亂 蓬 心 帶 白 雲 秋
Lãnh quế hương trầm thương hải nguyệt,
Loạn (hoặc Phi飛) bồng tâm đới bạch vân thu.
Quế lạnh hương chìm trăng bể biếc,cũng có thấy tên ký Vũ Hoàng Chương kèm theo mấy chữ Loạn Trung Bút cả Việt và Hán. Được biết, cuốn này đã in lần thứ nhất ở Nxb. Pham Văn Tươi, Sài Gòn, 1954 (ra mắt trước Hiệp nghị Genève) và cũng đã dùng chữ Loạn Trung Bút rồi. Ngoài ra, Loạn trung bút còn là tên một thiên tuỳ bút của nhà thơ in ở Sài Gòn vào năm 1970 mà người viết chỉ mới thấy nhắc trong trang quảng cáo của tập thơ Rừng phong chứ chưa có hân hạnh được đọc. Như vậy, có phần chắc đây là một biệt hiệu Vũ Hoàng Chương tự đặt cho mình kể từ khoảng giữa những năm 50 trở về sau.
Cỏ bồng mây trắng rối lòng thu.
开春石曲Dịch nghĩa:
祥雲滿坐坐杯明
嬉祝春開夜半瓊
東柳西桃雙盡美
秦桑燕草一回青
儘教故國懷金粉
自有狂言出石屏
頹臥與沙場醉臥
古來誰也占高名
Khai xuân thạch khúc [1]
Tường vân mãn toạ toạ bôi minh,
Hy chúc xuân khai dạ bán quỳnh. [2]
Đông liễu Tây đào song tận mỹ,
Tần tang Yên thảo nhất hồi thanh.
Tẫn giao [3] cố quốc hoài kim phấn [4],
Tự hữu cuồng ngôn xuất thạch bình [5].
Đồi ngoạ [6] dữ sa trường tuý ngoạ,
Cổ lai thuỳ dã chiếm cao danh?
Khúc trầm tấu khai bút đêm xuânHai bản dịch thơ của Nguyễn Huệ Chi:
Mây lành đầy khắp chỗ ngồi, chén rượu sáng lóng lánh,
Đùa vui chúc cho phút giao thừa xuân sang, nhiều điều tốt đẹp.
Liễu phía Đông và đào phía Tây cả hai đều đẹp tuyệt,
Dâu nước Tần và cỏ nước Yên cùng một sắc xanh.
Dẫu cho vẫn nặng lòng nhớ thương hương phấn nước cũ,
Song đã có một lời ngông vọng lên giữa núi dựng như thành.
Giữa kẻ say nằm nghiêng ngả và người say lăn nơi sa trường,
Xưa nay ai lưu danh cao hơn ai?
Bản dịch thứ nhất:Thêm một bất ngờ là sau khi gửi sang cho Đặng Tiến ít hôm, liên tiếp trong hai ngày 5 và ngày 7 tháng 1 năm 2007 nhà phê bình đã phản hồi bằng hai bản dịch thơ, tự coi là “dịch cóp và dịch ké” nhưng lại mong “nhận được... giải thưởng THƠ của Hội Nhà văn”. Đọc thơ rất vui vì cái khả năng biến báo trong khi “cóp” của anh thật tài tình, hy vọng thế nào cũng được cả Hội đồng thơ chấm giải, tệ lắm thì rớt xuống loại khen tặng là cùng. Nhân chép gửi bài này cho talawas xin lục đăng luôn hai bài thơ của anh để độc giả biết cái tài Đặng Tiến và bỏ phiếu giùm cho anh:
Chỗ ngồi mây bọc, chén long lanh,
Đùa khấn xuân sang: đêm tốt lành.
Đào, liễu Đông Tây đều tuyệt sắc,
Cỏ, dâu Tần Sở thảy tươi xanh.
Phấn hương nước cũ chưa khuây nhớ,
Vách dựng lời ngông đã trót thành.
Say khướt văn nhân, say tráng sĩ,
Xưa nay ai dễ chiếm cao danh?
Bản dịch thứ hai:
Mây lành vờn khắp chỗ ngồi,
Giao thừa rượu chói, bồi hồi chúc xuân:
Liễu, đào rực rỡ thanh tân,
Cỏ, dâu như một, bội phần xanh tươi.
Phấn hương nước cũ chưa nguôi,
Vách cao trót đã buông lời nói ngông.
Sa trường ngất ngưởng mấy ông,
Cùng ta say xỉn, ai hòng hơn ai?
Version 1:
Mây quấn ngôi thơ, chén rạng ngời,
Giao thừa mừng chúc đêm xuân tươi.
Tây đào đông liễu hây hây phất,
Dâu cỏ Yên Tần rỡ rỡ phơi.
Luyến phấn - hoa nghiêng đài nhớ nước,
Cuồng ngâm - thơ dựng vách in trời.
Thi nhân, tráng sĩ cùng say khướt,
Ai biết danh đời, ai nhượng ai?
Version 2:
Mây quấn ngôi thơ, rượu rực ngời,
Đêm quỳnh chén ngọc chúc xuân tươi.
Đông tây đào liễu hơ hơ hớ,
Dâu cỏ Yên Tần phới phới phơi.
Tiếc nhuỵ - hoa nghiêng đài nhớ nước,
Cuồng ngâm - thơ dựng vách in trời.
Thơ Say khướt hỏi người Chinh Chiến:
Tuý ngoạ sa trường, ai nhượng ai?