Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Vũ Duy Tuân
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/01/2020 15:05
自宜蠶到始黎君,
繼又梅山阮大人。
先帝猶傳民有邑,
臥朝初號碧池鄰。
北宮母子投禪日,
蘇將重須古寺辰。
義氣當為遙訓後,
微時不至倒懸心。
Tự Nghi Tàm đáo thuỷ Lê quân,
Kế hựu Mai Sơn Nguyễn đại nhân.
Tiên đế do truyền dân hữu ấp,
Ngoạ Triều sơ hiệu Bích Trì lân.
Bắc cung mẫu tử đầu thiền nhật,
Tô tướng trùng tu cổ tự thần.
Nghĩa khí đương vi dao huấn hậu,
Vi thì bất chí đảo huyền tâm.
Từ đất Nghi Tàm tới, ban đầu là ông họ Lê,
Rồi đến Nguyễn đại nhân quê ở Mai Sơn.
Truyền rằng làng có từ thời Đinh,
Nhưng đến vua Ngoạ Triều mới có tên Bích Trì.
Sau này mẹ con bắc cung hoàng hậu đến trú ở chùa,
Vị tướng họ Tô nhân thế sửa lại ngôi chùa cổ.
Việc nghĩa nên làm này phải nêu rộng rãi để dạy dỗ người đời,
Mong rằng lúc suy vi đỡ xảy ra những điều ngược ngạo.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 27/01/2020 15:05
Từ Nghi Tàm tới có Lê quân,
Tiếp đến Mai Sơn Nguyễn đại nhân.
Đinh đế ban truyền dân dựng ấp,
Ngoạ Triều mới đặt Bích Trì lân.
Bắc cung lúc ở con cùng mẹ,
Tô tướng sửa chùa cổ hoá tân.
Dạy lũ hậu sinh nêu việc nghĩa,
Cho thời điên đảo hướng điều nhân.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 27/01/2020 23:31
Được tin từ chùa Khánh Linh, ngày 2-12-1997 chúng tôi đã về chùa, ở thôn Khê Lôi, xã Liêm Tiết tỉnh Hà Nam. Do mái chùa bị hư hỏng nên nhà chùa đã tiến hành tu sửa lại và phát hiện ra một văn bản chữ Hán dấu trên sà dọc của chùa. Văn bản có tên Khánh Linh cổ tự bản mạt khảo, tức là Sự tích chùa cổ Khánh Linh.
Theo văn bản này thì sau khi Ngô Vương qua đời (944), Lê Huy Tâm vốn là tả hữu cho nhà vua, từ Nghi Tàm đã đưa 40 người trong họ về đây cư trú. Đến thời Tiền Lê (khoảng 980) Nguyễn Duy Hiền lại cùng gia đình từ Mai Sơn (Hoà Bình) về đây lập nghiệp. Ông xuất tiền của lập miếu thờ Lê Huy Tâm và dựng chùa thờ Phật. Ông đặt tên cho nơi mình ở là trang Bích Trì.
Ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Ánh đánh thành Phú Xuân (Thuận Hoá). Con trai của Nguyễn Huệ là Nguyễn Quang Toản cùng 56.000 quân lính rút về Nghệ An, tu bổ thành luỹ để cố thủ, đồng thời đưa 30.000 quân giúp Trần Quang Diệu tấn công phủ Hà Trung mở đường cho Ngô Thì Nhậm đem 40.000 quân chiếm giữ thành Thăng Long.
Tháng 6 năm Tân Dậu (1801), công chúa Ngọc Hân và con là hoàng tử Nguyễn Quang Đức, được Phan Huy Ích đưa xuống thuyền trốn về quê mẹ ở Bắc Ninh. Khi qua Bích Trì lúc đó thuộc huyện Thanh Liêm phủ Lị Nhân, công chúa bị cảm bèn cắt tóc ở lại chùa Khánh Linh. Lúc đó lão thần Tô Đức Vinh vốn là quan Trấn thủ hiến dinh thời Tây Sơn đã đến thăm hỏi, hai mẹ con công chúa Ngọc Hân. Vài tháng sau công chúa trở về Bắc Ninh. Cũng chỉ được vài tháng, thấy tình hình biến chuyển xấu, Ngọc Hân và hoàng tử Quang Đức phải đóng giả làm người đi buôn, nhờ sự giúp đỡ của Tô Đức Vinh để trở lại ngôi chùa cổ. Bà lấy pháp danh là Tế Thành còn Hoàng tử là Phục An. Lúc này quân Tây Sơn liên tiếp bị thất bại, khiến cả hai mẹ con đau buồn mà lâm bệnh. Ngày 2-6-1802 nghe tin Thăng Long có cơ thất thủ bà sai Đức Vinh chuẩn bị một chiếc thuyền và ngược dòng sông Nhị. Đến bãi Tự Nhiên, Ngọc Hân cùng con tự vẫn. Tô Đức Vinh thấy vậy bèn cùng người trở thuyền dùi thủng thuyền để tự trầm. Đó là ngày 6-6-1802.
Con cả của Tô Đức Vinh là Tô Duy Thức đi thuyền đến sau thì sự việc đã rồi bèn trở về báo với mẹ. Bà cho con gái út của mình là Ngọc Vân, cất tóc đối pháp danh là Trung Tâm đến ở tại chùa Khánh Linh lo hương khói. Cô trở thành vị tổ thứ 11 của chùa này.
Trước cảnh biển dâu, chìm nổi đổi dời, Tô Duy Thức cảm xúc làm một bài thơ:
Người ta nên giữ trước sau nhưTư liệu về chùa Khánh Linh này do hậu duệ của Tô Đức Vinh là Tô Xuân Phương ghi tại bái đường của chùa vào ngày 2 tháng 6 niên hiệu Thành Thái thứ 5 (1893)
Khí tiết tôi trung tiếng chẳng hư
Nhị thuỷ có trời hay việc gấp
Bính Trì không đất bước chân thư
Nêu ba, sắp giỗ chia hai lễ
Cùng sáu, tháng ngày tiền định ư?
Gió thổi sen hè xa vẫn nức
Khánh Linh chùa cổ đẹp muôn thu.