25.00
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
4 bài trả lời: 4 thảo luận

Đăng bởi Vanachi vào 16/01/2008 09:42, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 26/11/2008 08:51

Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo;
Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.

Cho hay vực thẳm nên cồn;
Khá biết gò cao hoá bể.

Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm;
Đò tạo hoá đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.

Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng;
Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.

Đường Ngu ấp tổn rượu ba chung, dường say dường tỉnh;
Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.

Của có không nào khác đóm mây;
Người tan hiệp dường như bọt nước.

Lánh non Thú cam bề ngạ tử hai con Cô Trúc đã về đâu?
Luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san đà bặt dấu!

Mộng tàn nửa gối, bướm Trang Chu giấc hởi mơ màng;
Xuân lụn mấy canh, quyên Thục đế tiếng còn khắc khoải.

Tha thiết bấy một gò hoàng nhưỡng, ngọc lấp hương chôn;
Ảo não thay! mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.

Ngựa trên ải một may một rủi;
Hươu dưới Tần bên có bên không.

Hán Võ ngọc đường người ngọc nọ xưa đà theo gió;
Thạch Sùng kim ốc của tiền xưa nay đã lấp sương.

Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc;
Thắm thiết cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.

Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;
Muôn dặm nước non Đường thế võ, nước non còn đời ấy đâu còn.

Thương hỡi thương! Huyền quản cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu văng vẳng;
Tiếc ỷ tiếc! Y quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.

Cung Tuỳ xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa sái luỵ;
Đài Ngô trước hươu nằm ngả ngớn, đòi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.

Ô giang đêm thẳm hé trăng mành, quạnh quẽ vó chùng họ Hạng;
Cai Hạ ngày chiều hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu.

Đài vắng Nghiêm Lăng, mấy khúc quanh co sông chảy tuyết;
Thuyền không Phạm Lãi, năm hồ lai láng nước ken mù.

Cho hay dời đổi ấy lẽ thường;
Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.

Luỵ rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân;
Sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo...

Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con;
Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.

Trước đền Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia;
Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.

Tám trăm dặm xông pha ải Bắc, thương họ Hàn chói lói lòng dân;
Mười chín năm giữ một niềm Tây, cảm ông Võ phơ phơ đầu bạc.

Cật Võ Mục nhuộm thanh bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh;
Áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu nghĩa chi phai lòng đỏ.

Trời món đất già danh hỡi rạng, luỵ non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi;
Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Mã chép còn tỏ rõ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Lôi Bất Chấn

(Lôi Bất Chấn xin sửa một số chữ theo cuốn "Văn học Nam Hà" của GS Nguyễn Văn Sâm - SG - 1972, vì không có bản Nôm gốc nên coi như dị bản cũng được)

Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo;
Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.

Cho hay vực thẳm nên cồn;
Khá biết gò cao hoá bể.

Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy [lâu đời];
Đò tạo hoá đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.

Nhấp [nhoáng] ngọn đèn trong kiếng;
Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.

Đường Ngu ấp [tốn] rượu ba chung, [dường say dường] tỉnh;
Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.

Của có không nào khác [đám] mây;
Người tan hiệp dường như bọt nước.

Lánh non Thú cam bề ngạ tử hai con Cô Trúc đã về đâu ?
Luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san đà bặt dấu!

Mộng [tàn] nửa gối, bướm Trang Chu giấc hởi mơ màng;
Xuân [lụn] mấy canh, quyên Thục đế tiếng còn [khắc khoải].

Tha thiết bấy một gò hoàng nhưỡng, ngọc lấp hương chôn;
Ảo não thay! mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.

Ngựa [trên] ải một may một rủi;
Hươu dưới Tần bên có bên không.

Hán Võ ngọc đường, người ngọc nọ xưa đà theo gió;
Thạch Sùng kim [cốc], của tiền xưa nay đã lấp sương.

Lao xao cõi trần ai, trường [hoan] lạc gẫm không mấy lúc;
[Thấm thoắt] cơn mộng ảo, đoạn biệt li há dễ bao lâu.

Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;
Muôn dặm nước non Đường [thổ] võ, nước non còn đời ấy đâu còn.

Thương hỡi thương! huyền quản cung Tần, chim làm tổ [tiếng] kêu văng vẳng;
Tiếc [ôi] tiếc! y quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.

Cung Tuỳ xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa [rưới] luỵ;
Đài Ngô trước hươu nằm ngả ngớn, [đòi] ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.

Ô giang đêm thẳm [hé] trăng mành, quạnh quẽ [búa rìu] họ Hạng;
Cai Hạ ngày [chiều] hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu.

Đài vắng Nghiêm lăng, mấy khúc quanh co sông chảy tuyết;
Thuyền không Phạm Lãi, năm hồ lai láng nước ken mù.

Cho hay dời đổi ấy lẽ thường;
Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.

Luỵ rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân;
Sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo...

[Tông] khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con;
Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm [tua] đền nghĩa mẹ.

Trước [đền] Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia;
Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.

Tám trăm dặm xông pha ải [tuyết], thương họ Hàn chói lói lòng [đơn];
Mười chín [thu dầm nhuốm trời sương], cảm ông Võ phơ phơ đầu bạc.

Cật Võ Mục nhuộm [thâm] bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh;
Áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu [nghĩa] chi phai lòng đỏ.

Trời [mỏn] đất già danh hỡi rạng, luỵ non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi;
Biển khô đá [rã] tiết nào phai, sử họ [] Mã chép còn tỏ rõ.


- Kim ốc cũng có nghĩa, nhưng ngu phu có đọc một bản Ca trù chữ Nôm cổ thì thấy cũng ghi là kim cốc.
- GS Sâm chú : Hiệu đính theo Hiếu trung hoài cổ vịnh - "Nông cổ mín đàm" số 87 ngày 9-07-1903 và "Quốc âm văn uyển" trang 106-107)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Xem lại tên

Bác Điệp Luyến Hoa có tài liệu thì tra lại giúp tên Võ Trường Toản, sao lại viết là 武長团  ?

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Cảm ơn

Trước hết cảm ơn bác về "dị bản". Những chỗ sai thấy được ngay tại hạ xin sửa ngay vào bản ở trên.

Chữ "kim cốc" và "kim ốc" khá khó biết chữ nào chính xác hơn. "kim ốc" thì đối chỉnh hơn, nhưng "kim cốc" thì gắn liền với tích Thạch Sùng.

Về tên Võ Trường Toản quả thực tại hạ cũng không nhớ được là lấy từ đâu nữa. Để từ từ tại hạ sẽ xem lại.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Thơ vịnh Sử

-VÕ TRƯỜNG TOẢN * SƯ BIỂU

Đàng Trong nhà giáo… tôn sư Võ
Quê ở Bình Dương… Gia Định còn…(1)
Dạy chữ ẩn cư từ Nguyễn Ánh
Viết văn hoài cổ tránh Tây Sơn
Trịnh Hoài ngài Đức… lưu Thông chí
Quang Định cụ Lê… sắc Quốc công
Nhân Tĩnh tộc Ngô cùng kết bạn
“Tam Gia” trọng đạo… học trò Ông…(2)


Thiềng Đức - 7/10/2008                                                             
* (?-1792)                                                                                                     

(1) chưa bị Pháp chiếm.                                                                                           

(2) “Tam gia thi xả”
-Một chân lí đã "ngộ" ra và tôn thờ:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ Tài"
Nguyễn Du
Chưa có đánh giá nào
Trả lời