Trần Thiện Chánh 陳善政 (1822-1874) tự Tử Mẫn 子敏, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể “xuất ngàn vàng mộ quân” (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay “Phá gia tài mộ quân ra sức chống Pháp” (Phá gia một sĩ lực ngự Hồ) như Miên Thẩm ngợi ca. Liệt truyện chép ông mất năm 1874 (Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27), lúc 53 tuổi, và căn cứ vào lối tính “tuổi ta” ngày trước, có thể xác định rằng ông sinh năm 1822.
Theo
Đại Nam thực lục và
Hương khoa lục, Trần Thiện Chánh đậu thứ 4 trong 16 cử nhân khoa thi hương trường Gia Định năm 1842 (Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2). Đầu tiên nhậm chức Hậu bổ Khánh Hoà, một thời gian sau ông được bổ làm Huấn đạo Long Xuyên, kế được thăng làm Tri huyện. Sau đó ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.
Ngày 17-2-1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Giữa lúc quan quân triều đình chạy tan tác - Hộ đốc Võ Duy Ninh chạy về Cần Giuộc, Đề đốc Trần Tri, Bố chánh Vũ Thực, Lãnh binh Tôn Thất Năng chạy qua Hóc Môn, thì Trần Thiện Chánh cùng một viên Suất đội bị thải hồi là Lê Huy tập hợp hơn 5800 nghĩa dũng - nông dân từ Hóc Môn kéo về Sài Gòn chặn giặc. Trong lịch sử chống Pháp ở Gia Định, sự kiện này có ý nghĩa quan trọng tới mức về sau một tác giả thân Pháp cũng phải nhắc tới mặc dù với thái độ cố tình bôi bác, chê bai:
Còn quan Bố Thực nan phân
Trần Tri Đề đốc nương lân tiền hành
Thuỷ sư Phó Lãnh Nguyễn Sanh
Lãnh binh Tôn Thấn danh Năng đồng đoàn
Hiệp nhau Tây Thới luận bàn
Bố, Đề, Chánh, Phó tính đàng qua Biên
Thới Tây Tân Phú tiếp liền
Tại quê Phủ Chánh gần miền Phủ Doi
Hai ông chạy đến loi ngoi
Xin quan ẩn trú hai tôi giúp giùm
Thúc thôi Tổng lý xã trùm
Sức chiêu tàn tốt cho sung viên biền
Chiêu quân khí giới thành tuyền
Cậy lương dân xã tương liền dưỡng binh
(Thơ Nam Kỳ, ou lettre Cochinchinoise sur les évenements de la guere Franco - Annamite, traduite par M.D., Chaigneau, Imprimerie Nationale, Paris, 1876)
Cần lưu ý rằng ngay sau ngày 17-2-1859, quân đồn điền của Trương Định, quân nghĩa dũng của Dương Bình Tâm, Phạm Tấn Phát... đều chưa kịp có mặt ở Sài Gòn, quân triều đình từ Huế thì càng chưa kịp kéo vào, trong khi đó Tổng đốc Long Tường Trương Văn Uyển đã lập tức rút quân cứu viện Gai Định về giữ Vĩnh Long, còn Vũ Thực, Trần Tri thì theo tác giả Thơ Nam Kỳ đã định rút quân sang Biên Hoà tránh giặc... Cho nên, Trần Thiện Chánh với gần 6000 chiến sĩ dưới quyền đã không chỉ làm riêng việc “hộ về cho Đề đốc Trần Tri rút về bảo Tây Thới” như các sử thần triều Nguyễn sẽ viết trong Thực lục, Liệt truyện... sau này, mà còn đã thực sự trở thành lực lượng chủ yếu bảo vệ mặt trận Sài Gòn trong những ngày đầu chống Pháp. Và hai tháng sau, có lệnh cho ông được phục hàm Tri huyện theo giúp việc quân ở Gia Định - lần này thì triều đình Tự Đức đã phải thừa nhận rằng viên Tri huyện bị cách kia quả có một “thực trạng hơn người”...
Theo Liệt truyện, sau đó Trần Thiện Chánh được thăng chức Đồng Tri phủ, đến năm 1864 (Giáp tý, Tự Đức thứ 17) được thăng hàm Hàn lâm viện Thị độc lãnh chức Phó Quản đạo Phú Yên, ít lâu sau lại được thăng hàm Hồng lô tự khanh, đổi giữ chức Biện lý bộ Hộ sung kinh kỳ Thuỷ sư Hiệp lý (Chỉ huy phó lực lượng thuỷ quân ở Huế).
Ở chức vụ Kinh kỳ Thuỷ sư Hiệp lý, Trần Thiện Chánh bị phạt một năm lương vì chiến thuyền tuần biển trở về trễ hạn. Năm 1866 (Bính Dần, Tự Đức thứ 19) ông được cử vào phái bộ Việt Nam qua Hương Cảng thương lượng đổi mua chiếc tàu máy Thuận Tiệp. Tháng 5 năm Đinh Mão 1867, không rõ vì lý do gì, ông bị “miễn chức chờ xét”, đến tháng 6 thì bị cách chức nhưng chỉ 13 ngày sau lại được phục hàm Hàn lâm viện Kiểm thảo lãnh Tri phủ Hàm Thuận tỉnh Bình Thuận; và cứ theo hai câu “Lòng trung cô độc vua lưu luyến, Lời nghị cao xa chúng ngại ngùng” (Cô trung yêu chủ quyến, Cao luận hãi nhân văn) trong bài thơ của Nguyễn Thông đưa ông về kinh năm sau thì rất có thể sự kiện trên có liên hệ trực tiếp với việc quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ tháng 6-1867, Khoảng cuối năm 1868 (Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21), quan coi Hàn lâm viện là Vũ Phạm Khải tiến cử Trần Thiện Chánh có tài thơ văn nên ông được thăng hàm Hàn lâm viện Tu soạn về làm việc ở Viện. Vài tháng sau, vào đầu năm 1869 (Kỷ Tị, Tự Đức thứ 22), ông được thăng hàm Hồng lô tự thiếu khanh, giữ chức Biện lý bộ Binh, đến giữa năm ấy sung chức Tán tướng quân thứ Sơn Tây, tham gia đánh dẹp các toán phỉ Trung Quốc tràn qua cướp bóc ở miền Bắc lúc bấy giờ.
Từ khi ra Bắc, Trần Thiện Chánh bị thăng giáng nhiều lần, đến cuối năm 1872 thì bị cách chức vì cấp phát tiền lương trái quy định, hút thuốc phiện và giả ốm để cưới vợ lẽ. Năm 1873, ông được tạm giữ hàm Tán lý cùng Thanh đoàn Lưu Vĩnh Phúc tiễu phỉ ở Tâm Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang), thắng liên tiếp 5 trận nên được thưởng quân công một cấp. Kế tiếp chiếm lại được huyện lỵ Phù Ninh tỉnh Sơn Tây nên được phục hàm Hồng lô tự khanh. Sau đó, ông được lệnh cùng Tôn Thất Thuyết chuyên lo việc tiễu phỉ ở Tam Tuyên để Hoàng Kế Viêm về Hà Nội giúp Nguyễn Tri Phương chuẩn bị chống Pháp.
Tháng 11-1872, tên lái buôn thực dân Jean Dupuis đã gặp gỡ Senez (đặc phái viên của tướng D’Arbaud từ Sài Gòn ra), trên vùng biển Bắc Bộ bàn bạc kế hoạch đánh chiếm miền Bắc, và sau đó nhiều lần gây hấn để tạo điều kiện cho bọn thực dân ở Nam Kỳ. Và đến tháng 10-1873, được chiêu bài “giải quyết vụ Jean Dupuis”, Thống đốc Nam Kỳ Dupré đã phái thiếu tá Francis Garnier đem quân ra Bắc. Ngày 3-11, Francis Garnier tới Hà Nội và sau đó lần lượt đánh chiếm các thành Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Triều đình Tự Đức liên tiếp cử các phái đoàn Trần Đình Túc, Nguyễn Văn Tường ra thương thuyết, nhưng ngày 21-12 quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục kích ở Cầu Giấy giết chết Francis Garnier. Ngày 31-12, Pháp phải giao trả thành Hải Dương, kế đó là thành Ninh Bình (8-1-1874) và Nam Định (10-1). Lúc bấy giờ tình hình chính trị-xã hội ở những nơi này rất rối ren, trong đó nổi bật là vấn đề Thiên chúa giáo: ngày 3-1-1874 Nguyễn Văn Tường và Philastre trong pháp đoàn hiệp thương Việt Pháp đã thoả thuận giải tán 12000 tên lưu manh và giáo dân phản động vừa qua theo quân của Francis Garnier đi quấy phá các nơi. Vì vậy mà Trần Thiện Chánh liên tiếp được cử giữ chức Khâm phái Nam Định rồi Khâm phái Hà Nội, nhưng vẫn còn ở Sơn Tây thì lại được lệnh lấy hàm Hồng lô tự khanh đổi sung Hộ lý Tuần phủ Ninh Bình sau khi quan tỉnh này là Đặng Văn Huấn, Bùi Văn Dị tâu rằng không đủ khả năng giải quyết vấn đề giáo dân ở tỉnh. Một thời gian sau ông được thăng hàm Thị lang, chính thức giữ chức Tuần phủ Ninh Bình.
Ngày 26 tháng 5 năm Tự Đức thứ 27 (9-7-1874), Trần Thiện Chánh ngã bệnh vì chứng khối u ở dạ dày (thượng tiêu yết cách) rồi qua đời sau khoảng 1 tháng mỏi mòn trên giường bệnh, để lại cho người quen một niềm thương tiếc xót xa. Được tin, Tự Đức cũng rất thương xót, ra lệnh cho các tỉnh từ Ninh Bình tới Huế tuỳ nghi điều động người và phương tiện đưa linh cữu ông về quàn tạm ở kinh.
Theo Liệt truyện, Trần Thiện Chánh nổi tiếng hay thơ, có sáng tác các tập
Trừng Giang thi văn tập,
Nam hành thi thảo và
Bách chinh thi thảo. Con ông là Trần Thiện Cốc sau làm quan ở Bình Thuận, giữ chức Tri huyện Tuy Phong.
Trần Thiện Chánh 陳善政 (1822-1874) tự Tử Mẫn 子敏, hiệu Trừng Giang, người thôn Tân Thới huyện Bình Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh). Có lẽ ông sinh ra trong một gia đình khá giả, nên sau này mới có thể “xuất ngàn vàng mộ quân” (Mộ sĩ vạn kim) như Phạm Phú Thứ tán tụng hay “Phá gia tài mộ quân ra sức chống Pháp” (Phá gia một sĩ lực ngự Hồ) như Miên Thẩm ngợi ca. Liệt truyện chép ông mất năm 1874 (Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27), lúc 53 tuổi, và căn cứ vào lối tính “tuổi ta” ngày trước, có thể xác định rằng ông sinh năm 1822.
Theo Đại Nam thực lục và Hương khoa lục, Trần Thiện Chánh đậu thứ 4 trong 16 cử nhân khoa thi hương trường Gia Định năm 1842 (Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2). Đầu tiên nhậm chức Hậu bổ Khánh Hoà, một thời gian sau ông được bổ làm Huấn…