Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Trần Anh Thái » Trường ca: Đổ bóng xuống mặt trời (1999)
I
Đoàn người đi lam lũ dưới hoàng hôn
Nắng rớt sau ngày chói gắt
Nơi biển thuở hồng hoang mở đất
Sương giá tan tê dại kiếp đời.
Những người đàn bà mở gùi đặt đứa con lên cát
Tiếng quạ kêu rờn rợn dọc bãi bồi
Những người đàn ông mang theo búa rìu và con
dao rựa
Làng bắt đầu từ một tiếng hú hoang.
Không dấu chân đi qua
Bờ biển đầy chướng khí
Không có cánh buồm về
Gió thừa đầy cửa bể
Giấc mơ chập chờn giữa ngọn sóng đen.
Người đàn ông bổ lưỡi rìu vào đất
Giọt máu rơi mây khói chẳng hình thù
Nén nhang thắp âm u sông nước
Gió thổi về hú vọng sau lưng.
Người cúi mặt dưới vòm khuya khoắt
Ánh ngày loảng xoảng dao khuơ.
Nắng không dựng thành tường cho người tựa
Mây không chụm thành nhà che tiếng khóc
Người trôi giữa bến bờ hư thực
Lô xô mái cỏ túp lều nghèo…
II
Ba ông Đầu rau dựng làng thuở ấy
Lửa bừng lên ngọn sóng
Lửa tràn cõi lang thang
Lửa dịu ngày cơ nhỡ
Bát cơm hun khói trộn than.
Lửa xua cơn run rẩy
Lửa tan dần âu lo
Lửa đốt phiến đá xanh khắc hình vào đá…
Cánh đồng mọc ra từ máu thịt ông bà
Lửa đậu đêm đêm ban thờ tiên tổ
Hạt giống giấu nụ cười
Những mầm cây ấm dần hơi thở.
Hạt giống
Bật từ bóng tối
Cái chết lửng lơ
Những chiếc rễ từng ngày bám vào lòng đất…
III
Lửa không bình yên
Sóng gió bập bùng
Vò rượu rót vào trời điên loạn.
Tiếng mõ gõ ra khói hương mây trắng
Hạt giống bạc xơ
Giấc ngủ chập chờn.
***
Tù và rúc
Sóng gào biển động
Lá bay sấp ngửa mặt ngày
Hình người gẫy khúc.
Đàn ông gò lưng vác đất
Tảng đất buông ra vỡ nắng ngang đầu
Đồng mở tới đâu
Bàn tay héo gió
Cơn khát giày vò
Mắt người mờ tỏ
Những đám mây bí ẩn trôi xa
Ngày dài mỏi mắt.
IV
Tôi sinh ra từ huyền thoại về làng
Bà ngoại ru giấc mơ thức ngủ
Ngôi đền Thần Hoàng tổ tông mười hai đời trước
Máu người hằn khô vách đá lô xô.
Mộ người ăn mày giờ thành gò đống
Trẻ con bày trận giả
Đôi khi tắt đèn tối lửa
Người lớn qua đường nương tựa bóng nhang.
Một kiếp sống niềm riêng ai biết
Khi chết làm hương khói trần gian
Cánh bèo dạt góc trời xô dập
Lặng lẽ vùi trong cát nở hoa.
Thuở ấy mặt trời hay có giông che
Người làng nối khúc ruột mềm thêm chắc
Sóng đổ dưới chân tê buốt
Khúc dây ngày tháng chặt bền.
Thuở ấy làng trong cổ tích
Cánh buồm trôi nước xiết đục ngầu
Hoang thú chết phương trời xứ lạ
Hoá làm chiều gió ngược đêm thâu.
Bao ngổn ngang sóng xiết sông sâu
Người làng ngậm buồn thả vào trời biếc
Cây ngô đồng không tưới vẫn ra hoa.
Lá tre nhỏ mà vòm che rợp mát
Giông bão tràn chát mặn ngày qua
Làng tồn sinh sau mỗi sáng mai
Và khép lại ngày dài liên tiếp
Mưa nắng nửa chừng
Làng trĩu hình gánh lúa gập trên lưng.
V
Đi tìm dấu vết tổ tiên
Phiến đá sân đình rêu phủ
Thời gian loà nhoà hoang phế
Chó đá nằm há miệng ngáp vu vơ.
Cánh đồng hoa mơ chậm nở
Bão giật rụng đầy mặt sông
Khao khát chết ngày biển động
Chân chưa tới bờ vực thẳm đã kề bên.
Giông bão đổ về đâu
Giận dữ đổ vào đâu
Người làng âm thầm chèo chống
Ngày ba bề tiếng ếch rạc bên sông.
Lều dựng lại
Mái tranh xơ nát
Ban thờ mờ
Chân nhang đổ đầy vơi
Bàn tay run sau khoé mắt bời bời.
Cơn bão qua
Người sực tỉnh gữa vùng tai hoạ
Ngày câm lặng
Gốc đa già bật rễ đổ đêm.
VI
Hạn hán về túp lều bỏ trống
Cá diếc nằm phơi bụng sủi tăm
Con cua càng ngoi bờ tránh nước
Rắn cỏ nằm lột xác trốn trong hang.
Đồng vắng không
Sóng vỗ qua bờ
Mặt người rộp nắng.
Mùa màng mộng mị vòng quanh
Cào cào xác mặt cỏ xanh
Hoa ngô rụng xước mặt người.
Chiêng trống gõ vào trời bay mất
Mây qua lơ đễnh
ánh trăng mờ xuyên chéo ngọn tre.
Bờ ao sót gốc muống già
Giun đất xéo đi cày lại
Ễnh ương ngồi già nua hốc tối
Hạt giống bao lần gieo xuống nhổ lên.
Ánh ngày về đâu
Người đối mặt vào trời khô khốc
Cõi xanh ngăn ngắt
Cánh đồng chết lặng hoàng hôn.
Đàn ông mây khói xoáy gào
Phụ nữ không có ngày hoá vọng phu chờ đợi.
VII
Cơn khát đốt
Vòm trời nóng chảy
Những nén nhang đền Vọng sáng đêm ngày
Ban thờ mỗi ngôi nhà cháy đỏ.
Người làng bước ra khỏi nhà ngửa mặt
Ngày mai
Bàng bạc gió
Chum vại trước nhà rệp chết nghẹn lối ra
Tiếng quạ kêu lạc phía trời qua.