Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!


Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu vào ngày 27-12-1987. Đời Nguyễn, ở Bắc Kỳ có hai trường thi hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Sau khi thực dân Pháp chiếm trường thi Hà Nội, các sĩ tử Hà Nội phải vào thi ở trường thi Nam Định.

Bài thơ này được sử dụng trong phần đọc thêm SGK Ngữ văn 11 từ 2007 với tiêu đề Vịnh khoa thi hương.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương

Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành tên là Tú Xương. “Thi không ăn ớt thế mà cay”. Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp 4 khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: “Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi”.

Một việc văn chương thôi cũng nhàm,
Trăm năm thân thế có ra gì?
(Buồn thi hỏng)
Khoa thi Đinh Dậu đôi với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau”.

Nhan đề bài thơ còn có một cái tên khác: “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”. Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.
Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!

Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì “vai đeo lọ” trông thật nhếch nhác, “lôi thôi”. Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử “lôi thôi” sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ “lôi thôi” lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”. Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi” nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” ấy.

Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm hoạ độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tu kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lay mụ đầm “váy lê quét đất”, “ghế trên, ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lẽ quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng.
Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: “Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục”.

Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ông Tây mụ đầm, bức tranh biếm hoạ coi như chẳng còn gì. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có “lọng” đối với “váy”, “quan” đối với “mụ” mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng, chèo cổ. Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng, lọng,...) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy (đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.

Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng “nào ai đó” phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ “ngoảnh cổ” gợi lả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. “Cảnh nước nhà” là cái cảnh nhục nhã:
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...
(...) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang
(Á tế Á ca)
Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...

Bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” vừa tả cảnh “nhập trường”, vừa tả cảnh “lễ xướng danh”, qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ, hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế!

Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: “... thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái lực sĩ khí vào những nghè, những cử bịt mũi xu thời! vẩy vào, và than một đôi lời”.

64.83
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Soạn bài “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương

Câu 1: Hai câu đầu cho thấy kì thi có gì khác thường? Chú ý phân tích kĩ từ “lẫn” và tác dụng của nó trong việc biểu đạt nội dung của bài thơ?

Gợi ý trả lời:

– Hai câu thơ đầu giới thiệu hoàn cảnh của khoa thi và cho thấy sự xáo trộn của trường thi:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Câu thơ đầu thông báo một lệ thường, dưới thời phong kiến, cứ ba năm có một khoa thi Hương. Điều đó không có gì đặc biệt, song câu thơ thứ hai không chỉ mang tính chất là lời giới thiệu cụ thể khoa thi ấy nữa mà là sự thông báo về những thay đổi trong tổ chức thi cử. Giọng điệu hài hước thể hiện khá rõ ngay trong hai câu thơ đầu. Đôi câu thơ như một thông báo. Khoa thi này do nhà nước tổ chức, cứ ba năm một lần thi Hương để chọn nhân tài. Bề ngoài thì bình thường: Một kì thi theo đúng thời gian thông lệ: Ba năm một lần. Nhưng nó báo hiệu một cái gì khác trước. Đó là thực chất của kì thi này là không bình thường: Trường Nam thi lẫn trường Hà. Người tổ chức không phải là triều đình mà là “nhà nước”.

– Cách dùng từ “lẫn” ngụ ý mỉa mai, khẳng định một sự thay đổi trong chế độ thực dân cũ, dự báo một sự ô hợp, nhốn nháo trong việc thi cử. Một từ “lẫn” không chỉ giới thiệu hai trường Nam Định và Hà Nội thi chung mà báo hiệu một sự xáo trộn của việc thi cử, không còn được như trước nữa. Có nhiều hàm ý trong từ “lẫn” này. Đó là thời kì thực dân Pháp đã dần xâm chiếm lập ra một chế độ thi cử khác, tạp nham lẫn lộn với lệ thường của kì thi trước đây.

Câu 2: Anh (chị) có nhận xét gì về hình ảnh sĩ tử và quan trường? Từ hai câu thơ thứ 3 và thứ tư, anh (chị) có cảm nhận như thế nào về cảnh thi cử lúc bấy giờ?

Gợi ý trả lời:

– Hai câu thơ tiếp theo miêu tả thật hài hước cảnh trường thi nhộn nhạo với những nhân vật chính là sĩ tử và quan chủ khảo trường thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
– Bằng biện pháp đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: “lôi thôi”, “đeo lọ” cùng với những từ chỉ âm thanh: “ậm oẹ”, “thét”, nhà thơ đã tái hiện lại quang cảnh trường thi trở nên nhốn nháo, ô hợp, mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức. Nghệ thuật đảo ngữ đặt các từ láy là tính từ lên đầu câu vừa gây ấn tượng về hình thức vừa gây ấn tượng khái quát hình ảnh thi cử của các sĩ tử khoa thi Đinh Dậu. Hơn thế, sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan chủ khảo trường thi không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Hình ảnh quan trường hiện ra là kẻ chỉ biết ra oai, nạt nộ, nhưng giả dối, không có thực lực. Người chịu trách nhiệm tổ chức kì thi và sĩ tử đi thi thật không ra thế nào. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho. Cảnh tượng đó phản ánh đúng sự nhốn nháo, pha tạp, thiếu vẻ trang nghiêm của một kì thi không nghiêm túc, dự báo trước sẽ không hiệu quả.

Câu 3: Phân tích hình ảnh quan sứ, bà đầm và sức mạnh châm biếm, đả kích của biện pháp nghệ thuật đối ở hau câu 5,6.

Gợi ý trả lời:

Trong câu thơ thứ năm và thứ sáu có sự xuất hiện của hình ảnh “rất tây”, đó là bà đầm. Hình ảnh cờ rợp trời khẳng định quy mô của cuộc thi là quy mô lớn, được tổ chức linh đình. Sự có mặt của vợ chồng quan sứ đáng lẽ sẽ làm cho quang cảnh trường thi trang nghiêm hơn. Tuy nhiên, hình ảnh những vị sứ giả ấy lại là hình ảnh quan sứ và mụ đầm đầy vẻ phô trương, hình thức, không đúng lễ nghi của một kì thi. Nhưng trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tăng thêm sự chua chát. Tất cả báo hiệu một sự sa sút về chất lượng thi cử như điều tất yếu của xã hội thực dân nửa phong kiến. Quyết định số phận của của các sĩ tử là một kẻ ngoại bang không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm. “Váy lê quét đất” đối với “Lọng cắm rợp trời” là hình ảnh tái hiện thực trạng thực dân Pháp đang hạ nhục quốc thể ta và tìm cách lấn át văn hoá của ta. So với bài thơ khác có câu: “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt – Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng” thì ta có thể thấy được điểm tương đồng rất lớn. Bốn câu thơ vạch trần sự nhếch nhác, tuỳ tiện của khoa cử lúc bấy giờ. Đồng thời ngầm thể hiện nỗi xót xa chua chát của nhà thơ và người đọc.

Câu 4: Phân tích tâm trạng, thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi. Lời gọi của Tú Xương ở hai câu thơ cuối có ý nghĩa tư tưởng gì?

Gợi ý trả lời:

– Hai câu kết bài thơ là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ hỏi “nhân tài đất Bắc” cũng chính là hỏi những người thuộc tầng lớp trí thức. Đó là những sĩ tử đang chăm chăm chạy theo danh vọng. Ông hỏi mà thực chất là để thức tỉnh họ về nỗi nhục mất nước, phải thi ở một trường thi tạp nham, nực cười. Kẻ thù ngoại bang nếu vẫn có mặt ở lễ xướng danh này thì dẫu có đậu tiến sĩ ra làm quan cũng là thân phận tay sai mà thôi. Đường công danh chẳn còn có ý nghĩa gì trong thực trạng nước nhà đang nguy khốn. Hai tiếng “ngoảnh cổ” bộc lộ thái độ vừa mạnh mẽ vừa thể hiện một nỗi tủi nhục ê chề.

– Lời gọi hỏi của nhà thơ hỏi người cũng chính là hỏi mình. Giọng thơ dù đay nghiến mà vẫn có cái gì xa xót đến rưng rưng. Cảnh trường thi nhốn nháo, nhố nhăng làm bật lên tiếng cười chua chát về tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Đây cũng là mâu thuẫn nội tại lúc bấy giờ không thể điều hoà được giữa kẻ sĩ muốn thi thố tài năng với đời với thực tế phi nghĩa của khoa cử học vấn.

63.33
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ "Vịnh khoa thi hương" của Tú Xương

Có lẽ đây là bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của Việt Nam buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Bức tranh miêu tả quang cảnh kì thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Hai câu thơ giới thiệu khéo léo đặc điểm của kì thi Hương này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì. Cho nên, về mặt nghệ thuật, hai câu đề đã làm tốt nhiệm vụ giới thiệu của nó.

Tính chất tạp nhạp, lôi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước sang hai câu thực:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Những nhân vật trọng tâm của trường thi - sĩ tử và quan trường - được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Sĩ tử là người đi thi quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ "lôi thôi" này đặt ở đầu câu, gây ấn tượng mạnh, làm cho hình ảnh "vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến.

"Lọ" ở đây người có người hiểu là lọ mực, có người hiểu là lọ đựng nước uống mà thí sinh phải mang theo. Dù là hiểu theo nghĩa nào, hình ảnh "vai đeo lọ" vẫn nổi lên thật mỉa mai cái vẻ xiêu vẹo, gãy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ông cử tương lai.

Đối với đám sĩ tử như thế, còn bọn quan trường cũng được Tú Xương tìm cho một từ thật xứng đáng:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa
Bọn sĩ tử thì "lôi thôi"; lũ quan trường thì "ậm oẹ". Ậm oẹ là một từ rất sáng tạo của Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở gọi tên các thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, và số thí sinh hẳn là rất đông, nên quan trường phải thét vào loa thì người ta mới nghe được. Đây là một chi tiết rất chân thực, gần như Tú Xương chỉ làm nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình mà thôi. Nhưng chính từ ngữ "ậm oẹ" hết sức độc đáo này đã khiến người thợ chụp hình bình thường ấy thành một nghệ sĩ rất sắc sảo, rất thú vị.

Nó bộc lộ thực chất và chân tướng tay sai của đám quan trường này. Ậm oẹ là âm thanh ú ớ, nói không thành tiếng rõ, nhưng cái giọng điệu lên gân la lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi chứ không có thực quyền. Cho nên, nếu "thí sinh" mất đi cái vẻ nho nhã trí thức của thuở nào thì giám thị, giám khảo cũng không còn cái dáng nghiêm trang đáng tôn kính nữa.

Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, mà triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười.

Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Tác giả lại tiếp tục "tả thực" cảnh trường thi. Theo như sách sử cho biết, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tên toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tôn công sứ Nam Định Le Normand đến dự. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn.

Hình ảnh quan Tây mụ đầm ngồi trên vị trí cao ngất đó cho thấy cảnh mất nước của chúng ta. Nhưng cái thú vị nhất trong hai câu thơ này không phải chỉ có bấy nhiêu chi tiết đó. Cái thú vị nhất chính là Tú Xương đã biến nghệ thuật làm thơ Đường thành một vũ khí sắc bén để bày tỏ thái độ của mình đối với cái mà mình không ưa thích.

Lợi dụng nghệ thuật đối, Tú Xương, đã đặt cái "váy" của bà đầm ngang với cái "lọng" của ông Tây. Nói cách khác, ghép hai hình ảnh đó với nhau, cho nó đối nhau, Tú Xương đã chơi một vố rất đau và rất thẳng tay đối với lũ quan Tây. Và cũng trong nghệ thuật đối, "quan sứ" đối với "mụ đầm" là một dụng ý của Tú Xương. Quan sứ là chữ trang trọng để gọi ông Tây, nhưng "mụ đầm" là chữ "chơi xỏ", là chữ để chửi. Mụ là tiếng gọi hạng đàn bà không ra gì. Gọi ông quan Tây thì trang trọng, nhưng gọi vợ ông quan là con mụ chẳng ra gì, đó là một cách chửi của Tú Xương.
Người ta nói "văn học là suy tư chứ không phải là miêu tả". Chính ở trong trường hợp này, qua miêu tả, nhà thơ Tú Xương đã thể hiện một suy tư sắc sảo, một thái độ phê phán sắc bén. Cho nên, đậm đà chất hiện thực, nhưng thơ Tú Xương không phải chỉ là hiện thực đơn điệu, lạnh lùng, ở trong hiện thực mà ông phơi bày có cơn giận và niềm đau của tâm hồn, của tấm lòng con người.

Cho nên, không lạ gì, đứng trước cảnh oái oăm và nhục nhã ấy, nhà thơ đã buột miệng thốt lên:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất nước. Câu thơ là một tiếng kêu than đối với chính mình hay là một lời kêu gọi đối với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân tộc? Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa, cho thấy tâm trạng xốn xang của chính nhà thơ. Nhân tài ở đây chỉ ai, nếu không phải là nhằm tới những người trí thức của thời đại đã từng đi qua cái cửa của trường thi này?
Kết thúc bài thơ "Chạy Tây", Nguyễn Đình Chiểu cũng kêu gọi:
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.

Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ông nhắm tới những người "dẹp loạn". Điều đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm "dẹp loạn" của nhà thơ ca ngợi và chủ xướng quan niệm "Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây". Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người còn không thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi "ngoảnh cổ mà trông". Ngoảnh cổ là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ "ngoảnh cổ" của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm hoạ của truyện cười. Cho nên không phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng lòng của ông bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ.

Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi có người cho rằng "thơ Tú Xương” đi bằng cả hai chân: hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái (Nguyễn Tuân). Trên đôi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ "Vịnh khoa thi Hương", Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã hội Việt Nam.


Trần Phò (GV. Chuyên văn Trường THPT Lê Hồng Phong Thành phố Hồ Chí Minh)
tửu tận tình do tại
64.67
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cảm nhận về bài thơ “Vịnh khoa thi Hương”

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương (còn có tên Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu) là một trong số 13 tác phẩm của Trần Tế Xương viết về đề tài thi cử. Trong bản chất, việc thi cử bao giờ cũng cần thiết. Có thể khẳng định rằng phần lớn những người đỗ đạt (kể cả những người đỗ vào chính các khoa thi mà Trần Tế Xương từng phê phán) đều là những người tài giỏi, có đóng góp quan trọng với đất nước. Với Trần Tế Xương, ông triệt để khai thác đề tài thi cử, những điều mắt thấy tai nghe, chủ yếu là những việc liên quan đến lề lối, cung cách thi cử, lối thi cũ cũng như khi đổi sang lối thi mới, cả người đỗ đạt cũng như người hỏng thi. Vì thế, việc đọc hiểu bài thơ Vịnh khoa thi Hương cần phân biệt rõ thủ pháp biếm hoạ, cực tả (bao gồm cả việc châm biếm những phương diện trong bản chất vốn là sự cải cách, đổi mới, tiến bộ xã hội) và cần được đặt trong tương quan với nhiều thi phẩm của chính Trần Tế Xương (Đổi thi, Than sự thi, Đi thi nói ngông, Ông tiến sĩ mới...) cũng như so với thơ ca cùng dạng đề tài khoa cử của nhiều tác giả khác đương thời.

Trong tầm quan sát của Trần Tế Xương, tất cả mọi vấn đề liên quan đến thi cử đều bị “biến dạng” trong mối quan hệ giữa danh và thực, tài và lực, giữa cái cũ lạc hậu nhưng chưa tiêu tan và cái mới vẫn chưa thắng thế. Nói cách khác, thơ Trần Tế Xương đã hoán cải ngay cả những bi kịch thi cử và thất vọng cá nhân thành một chuỗi cười dài.

Mở đầu bài thơ Vịnh khoa thi Hương, việc nhà nước mở khoa thi theo lối mới và thay đổi cách thức tổ chức thi cử - trường Hà Nội thi chung với trường Nam Định - cũng trở thành vấn đề:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Trong hai câu ở phần thực, nhà thơ thực hiện thủ pháp cực tả, nói quá và biếm hoạ hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ “Lôi thôi...” lên đầu câu, nhân vật sĩ tử “vai đeo lọ” bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc đảo tính từ đồng thời là từ láy “Ậm oẹ...” lên trước cũng biếm hoạ ông quan coi thi “miệng thét loa” thành người ngu ngơ, ấm ớ, dớ dẩn. Trên thực tế, việc quan trường “miệng thét loa” là hành động đúng – đúng cả về mục đích và ý thức trách nhiệm – nhằm vãn hồi trật tự, xác lập sự nghiêm túc nơi trường thi, có gì là sai đâu? Hai câu thơ giới thiệu hai kiểu nhân vật vốn là chủ nhân nơi trường thi nhưng đã bị biếm hoạ thành hình ảnh những người thô kệch, thiếu tư cách, không phù hợp với khung cảnh thi cử. Ở đây, kiểu nhân vật sĩ tử và quan trường từ muôn năm xưa vốn được coi trọng mà nay mất thiêng, hoá thành loại người nhếch nhác, láo nháo, đáng bị chê cười. Tác giả đã lược giản, bỏ qua cái phần phẩm cách mà chính họ từng đại diện cho các giá trị tinh thần truyền thống và ngược lại, chỉ tập trung khai thác, tô đậm, biếm hoạ ngay cả những hành động, việc làm nghiêm chỉnh của họ nơi trường thi. Tiếp theo hai câu ở phần luận, Trần Tế Xương giới thiệu thêm hai loại nhân vật mới mà tử cổ xưa đến nay mới lần đầu xuất hiện giữa nơi trường thi:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Hoạt cảnh nổi bật là sự khoa trương hình thức với những chiếc lọng “cắm rợp trời” và sau đó là ông quan sứ (ông quan cai trị người Pháp) xuất hiện. Ở câu thơ sau là chiếc váy xoè xa lạ “lê quét đất” và liền đó là hình hài “mụ đầm” (bà, bà đầm: dame: bà Tây...) (vợ ông quan sứ Pháp) oai vệ bước ra. Có thể nói sự hiện diện của hai kiểu nhân vật “quan sứ” và “mụ đầm” chính là một sự thay đổi cơ bản, khiến cho hoạt cảnh trường thi càng thêm phần xa lạ, phản cảm. Hai kiểu nhân vật này đại diện cho một thời đại mới, một chế độ mới, một thế lực và một nền giáo dục mới mẻ. Cách gọi “quan sứ” đăng đối với “mụ đầm” đã hàm chứa sự giễu cợt, châm biếm mát mẻ và thái độ xa lánh, coi thường... Tuy nhiên, ngay cả khi trong sách giáo khoa có chú dẫn về cảnh đón rước: “Khoa thi Hương này có Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Pôn Đu - me (Paul Doumer) cùng vợ đến dự” thì xét về bản chất, khoa thi rất được chú trọng, có cả quan Toàn quyền đến tham dự, chứng kiến. Và cũng xét về bản chất, có điều gì cần phê phán không? Thêm nữa, hình ảnh bà đầm trang phục đúng kiểu Tây cũng bị giễu nhại: Váy lê quét đất... Thời Pháp thuộc, phần nhiều dân ta xa lạ với kiểu váy đầm, tóc phi dê: Cô phi dê là con chó xồm/ Đứng bên tôi làm tôi hết hồn... Bà đầm – vợ ông Toàn quyền – vốn chẳng có lỗi gì cũng bị săm soi, chê trách, biếm hoạ. Có thể nói, Trần Tế Xương đã đứng trên lập trường đạo đức và thậm chí là một chiều khi qui kết, châm biếm cả những phương diện thuộc về cải cách thi cử và tiến bộ xã hội. Cho đến hai câu kết, Trần TếXương nâng cấp sự ý thức của các sĩ tử trong khoa thi thành vấn đề quốc thể:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Câu hỏi đặt cho nhân tài đắt Bắc “nào ai đó” góp phần tô đậm, nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm kẻ sĩ trước hiện tình đất nước. Bởi lẽ những người được gọi là “Nhân tài” ở đây trước hết phải kể đến các sĩ tử, những người đang dự thi và mong được đỗ đạt, làm quan, thành nhân tài cai quản xã hội. Nhìn rộng ra, xếp vào hệ thống nhân tài còn có giới quan trường, các bậc trí thức, những người có trách nhiệm với non sông đất nước. Tác giả đặt ra câu câu hỏi nhưng ngay trong đó đã sẵn có câu trả lời, ai cũng rõ “ai” được xếp vào loại “nhân tài”. Câu thơ thật bình dị mà đa nghĩa, khơi gợi ý thức trách nhiệm của mọi người: Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà...

“Ngoảnh cổ mà trông...” thì cũng chính là tự trông lại, tự xét đoán, nhìn nhận lại thân phận mình. Có thể nói hai câu kết đã nâng tầm tư tưởng của bài thơ, gián tiếp đưa ra câu hỏi cho tất cả các sĩ tử, quan trường và nhân tài đất Bắc với bên kia là những quan sứ, mụ đầm cùng xuất hiện trong hoạt cảnh thi cử nhố nhăng thời thực dân nửa phong kiến. Điều này tạo nên tiếng cười lưỡng phân trong thơ ông: vừa bất lực trước quá khứ vừa ngơ ngác trước một thực tại mới, vừa xa xôi kỳ vọng vào lớp người mới “Nhân tài đất Bắc” vừa bàng hoàng trước phong vận đổi thay “Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương thể hiện sắc nét hệ thống hình tượng tác giả vừa trong tư cách cảm hứng sáng tác vừa là sự bày tỏ nỗi niềm chủ thể và như sự miêu tả về một kiểu nhân vật trữ tình khách thể, “bên ngoài mình”. Ông vừa đóng vai chứng nhân, vừa là tác giả và đồng thời cũng là sĩ tử và “nhân tài” đất nước. Với tiếng cười trào lộng, nhà thơ đi sâu khai thác và biếm hoạ mọi nhân vật, từ vẻ ngoài đến vai trò, vị thế và đi đến khái quát được bản chất xã hội qua thực trạng hình thức thi cử. Có thể thấy thủ pháp châm biếm, “hí hoạ” trong bút pháp trào phúng của Trần Tế Xương đã làm nên mối quan hệ hai chiều: trào phúng gắn quyện với trữ tình, vẽ nên hoạt cảnh thi cử bi hài và lên tiếng thức tỉnh lương tâm người trí thức trước thực trạng xã hội đương thời.

tửu tận tình do tại
54.40
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Vịnh khoa thi hương: Tiếng lòng phẫn uất và nỗi đau thế sự

Văn chương đã đẹp thì đẹp đến nao lòng nhưng đã sầu thì sầu đến ảo não. Có những người suốt đời họ đi tìm cái đẹp trên thế gian để hoá thành con chữ và gắn vào đó là đôi cánh bay bổng, mượt mà. Ngược lại, cũng có những nhà văn thơ suốt đời, suốt kiếp họ đi tìm ra cái mặt tối tăm của xã hội đương thời để phê phán, chẳng che đậy mà phản ánh lên từng trang thơ chính mình như nhà thơ Tú Xương. Tú Xương cũng tìm thấy và kìm nén những uất ức cuộc đời, để khi nó nổ tung, ông lại điên cuồng viết thành thi phẩm Vịnh khoa thi hương, một áng văn mang nặng nỗi đau thế sự khi có cả nỗi buồn, chua xót cùng cả tiếng cười phỉ báng sâu cay.

Tú Xương - nhà thơ trào phúng tiêu biểu của văn học Việt Nam

Nhà thơ Trần Tế Xương có bút danh là Tú Xương, ông lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo trí thức tại làng Vỵ Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Nhà thơ sống trong thời đại khó khăn nhất của dân tộc, khi phong trào yêu nước Cần Vương dần thoái trào, Pháp đem quân đánh thành Hà Nội lần đầu tiên năm 1873 và sau đó tấn công vào Nam Định. Trước tình cảnh ấy, triều đình nhà Nguyễn đang đứng trên bờ vực sụp đổ càng lúc trở nên thối nát. Đời sống nhân dân khổ cực bởi thuế má nặng nề, đất nước chìm dần vào tăm tối.

Đồng tiền và sự phi nhân tính lên ngôi, cuộc sống đầy rẫy những điều bất công, tàn ác với bao lố lăng dần trở thành lẽ thường, Tú Xương đã lặng lẽ mang cái thở dài đặt trọn vào thơ ca. Thơ trào phúng của Tú Xương rất phong phú, vì nó là tấm gương soi chiếu những mặt tăm tối nhất từ hiện thực. Hễ chúng đụng vào tâm hồn, trái tim da diết ấy thì mạch cảm xúc ông lại trào dâng và tạo nên tiếng cười để đả kích. Nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ của ông là phê phán mặt trái giữa đời sống thị thành, tiếng cười châm biếm và tự trào mang sắc thái vừa tiễn biệt quá khứ, vừa bất đắc dĩ chấp nhận lối sống thị dân đang dần được định hình. Lối thơ trào phúng của Tú Xương là cảnh đời, xã hội khách quan và tinh thần tự trào. Ở đó, ông tìm thấy được những điều trái đạo lý như các tác phẩm tiêu biểu Giễu người thi đỗ, Thương vợ, Vịnh khoa thi hương.

Vịnh khoa thi hương chất đầy nỗi niềm trước thời cuộc đất nước

Bắt đầu đi thi từ năm mười lăm tuổi nhưng đều chẳng trọn vẹn, khoa thi Đinh Dậu năm 1897 đối với Tú Xương có ý nghĩa đặc biệt bởi mang theo cả những hăm hở và hy vọng của nhà thơ. Thi phẩm Vịnh khoa thi hương đáng lẽ phải bày tỏ niềm hy vọng ấy của ông nhưng lại trở thành tiếng khóc cùng tiếng cười châm biếm sâu cay trước thời cuộc đầy tha hoá, lố lăng. Nhan đề bài thơ còn sở hữu một cái tên khác là Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, Vịnh khoa thi hương đã miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.

Bức tranh toàn cảnh của khoa thi Hương năm Đinh Dậu trong Vịnh khoa thi hương

Vịnh khoa thi hương là bức biếm hoạ toàn cảnh khoa thi, vì tình hình chính trị bất ổn nên sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung sĩ tử của trường Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, trái hẳn không khí trang nghiêm vốn có chốn “cửa Khổng sân Trình”. Nhìn vào bất cứ đâu, Tú Xương cũng thấy đầy rẫy những nghịch cảnh. Từ bức tranh cuộc sống đến chân dung con người cùng mối quan hệ xã hội đáng cười, đáng chê trách đều được thể hiện qua từng dòng thơ.

Hiện thực giao thời nhốn nháo đầy hỗn tạp của khoa thi

Cái lệ “ba năm mở một khoa” vốn là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt ra từ lâu. Thế nhưng từ “nhà nước” mở đầu bài thơ lại ám chỉ chính quyền bảo hộ thực dân Pháp với ý châm biếm, vì bấy giờ triều đình chỉ còn là lẽ bù nhìn:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Trong tầm quan sát của Trần Tế Xương, tất cả mọi thứ liên quan đến kì thi đều trở nên biến dạng, mối quan hệ giữa danh và thực, tài – lực, cái cũ lạc hậu nhưng chưa tiêu tan cùng cái mới vẫn chưa thắng thế. Thi nhân đã hoán cải ngay cả những bi kịch thi cử và sự thất vọng cá nhân thành một chuỗi cười dài với đủ điều bát nháo, chẳng quy cũ như thời thịnh thế ngày xưa. Hai câu thơ đầu mang tính chất thông báo nhưng lại khiến người đọc phải bận tâm và mường tượng ra sự hỗn độn. Chỉ với một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo khắc hoạ tình trạng nhốn nháo, tạp nham của kì thi Hương năm ấy.

Cảnh trường thi cùng tiếng cười châm biếm sâu cay của nhà thơ

Cảnh tượng bát nháo, nực cười nơi trường thi từ sự chung đụng lẫn lộn giữa trường Hà và trường Nam chỉ là sự khởi đầu cho những cảnh tượng đáng buồn ở giai đoạn cuối mùa Nho giáo:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng nét vẽ rất đặc sắc. Là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi đến vậy.

Ngày xưa, kỳ thi được xem là sự kiện trọng đại, các sĩ tử tham dự đều có sự chuẩn bị kỹ càng khi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp đựng bút, giấy cùng nghiên mực. Giờ đây, dáng hình “sĩ tử” trong thật “lôi thôi”, nhếch nhác với cái “vai đeo lọ” lỉnh kỉnh vô cùng. Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu nhấn mạnh sự không gọn gàng của các vị “sĩ tử”.

Mang vác lỉnh kỉnh như thế trông họ lôi thôi, lại thêm chen lấn, xô đẩy nên càng giống đám hỗn loạn ngoài đường, ngoài chợ chứ chẳng phải chốn uy nghiêm lâu nay. Sĩ tử vốn là tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến. Ở đám người “lôi thôi” nhếch nhác ấy rồi sẽ xuất hiện những ông cử, ông tú nay hay mai há chẳng phải điều chua chát đối với nhân tài của đất nước.

Thảm hại thế đã đành, ấy vậy mà cảnh trường thi cũng chẳng hơn gì mấy. Tiếng loa gọi thí sinh đáng lẽ phải dõng dạc, rành mạch nhưng ở đây lại “ậm oẹ”, thiếu uy nghiêm. Trong kì thi, “thét loa” vốn là việc đúng cả về ý thức lẫn trách nhiệm nhằm xác lập sự nghiêm túc. Thế nhưng ở đây, Tú Xương sử dụng bút pháp đảo tính từ, từ láy “ậm oẹ” cũng đã biếm hoạ ông quan coi thi thành người ngu ngơ, thiếu uy nghiêm.

Đặc tả về sự tàn tạ, trớ trêu lúc bấy giờ, ngòi bút Tú Xương cũng từng cất lên tiếng thở than trước cảnh suy vong của nền Nho học đã cuối mùa ở một thi phẩm khác là Than đạo học:
Đạo học ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoa tư hương nhấp nhổm ngồi.
(Than đạo học, Trần Tế Xương)
Câu thơ giới thiệu hai nhân vật vốn là chủ nhân nơi trường thi nhưng lại biếm hoạ thành những người thô kệch, thiếu tư cách. Chúng thật chỉ là kẻ vênh váo, dựa hơi, không chút tài năng cũng chẳng có thực quyền. Tú Xương đã vẽ nên toàn cảnh nhốn nháo, quan trông thi luôn miệng hống hách, sĩ tử thì càng lôi thôi, xiêu vẹo như chính tiếng cười chua chát của ông trước thời cuộc:
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Xuất hiện để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên toàn quyền Paul Doumer cùng vợ đã đến dự khai mạc cho phần thi thêm long trọng. Phép đối được sử dụng rất đắt trong câu thơ, “cờ cắm” chốn trường thi vốn để che đầu cho các bậc đức cao trọng vọng lại đối lập với chiếc váy loè loẹt của “mụ đầm”. Như trong Giễu người thi đỗ, ông có viết:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng.
(Giễu người thi đỗ, Trần Tế Xương)
Con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giúp người đọc nhận ra nỗi nhục mất nước. Qua hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau là cờ triều đình phong kiến bán nước đối với chiếc váy của vợ thực dân cướp nước.

Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách trịnh trọng, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy thực trạng đau lòng ở nước ta thời bấy giờ. Triều đình nhà Nguyễn trở nên sáo rỗng, bù nhìn khi thực dân Pháp đã kịp thời thâu tóm mọi quyền hành. Từ hình ảnh, âm thanh, câu chữ và cách đối cùng đảo ngữ ở Vịnh khoa thi hương, Tú Xương đã bật ra tiếng cười vừa mạnh mẽ lại thấm thía, xen lẫn những tiếng nấc trong nghẹn ngào, xót xa.

Niềm chua xót trước sự suy vong của đất nước của thi nhân

Hiện thực xã hội luôn là chất liệu của thi ca, bởi nghệ thuật là tấm gương phản chiếu chân thực nhất sự vận động và phát triển cuộc sống. Người làm nghệ thuật lại không tài nào ngoảnh mặt trước những cảnh đau lòng, xót xa tột cùng ấy. Nguồn mạch trữ tình ở Vịnh khoa thi hương vốn được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy, tai nghe. Chứng kiến sự lố lăng, lộn xộn trong ngoài chốn quan trường, Tú Xương lắng lòng mình lại và cất lên nỗi chua xót trước thời vận đất nước.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Nếu sáu câu thơ trên như châm biếm, mỉa mai mang giọng điệu hóm hỉnh thì với hai câu thơ cuối, bài thơ lại vang lên đầy tâm sự cùng bao nỗi xót xa trước sự suy vong của đất nước. Dẫu không có giọt nước mắt nào ở đây nhưng người đọc cảm nhận nhà thơ như đang cắn răng, cố nuốt tiếng khóc vào trong. Ông khóc vì quốc thể bị xúc phạm, vì nỗi nhục của giới trí thức nói riêng và cả dân tộc nói chung. “Nhân tài đất Bắc” là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc. Sơn Nam, Kinh Kỳ và Thăng Long nơi nghìn năm văn hiến hội tụ mọi tinh hoa của đất nước.

Nhà thơ là một trong những sĩ tử đã dự thi và chứng kiến cảnh khoa thi Hương năm ấy. Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của kẻ trí thức, nỗi nhục mất nước ngưng đọng, uất kết lại thành tiếng thở trượt dài cùng dòng lệ tuôn trào. Ba tiếng “nào ai đó” phiếm chỉ làm cho tiếng than và lời kêu gọi trở nên thấm thía đến đau lòng, là hình thức lay động đầy chua xót để thức tỉnh những nhân tài của đất nước.

“Ngoảnh cổ” ở câu thơ cuối gợi tả một thái độ cùng tâm thế không cam tâm nhục nhã trong kiếp nô lệ. Tú Xương nhắc những “nhân tài” hãy nhìn lại nỗi đau và nỗi nhục của đất nước, phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. Đọc câu thơ ấy mà độc giả cảm nhận được nỗi xót xa đến tột cùng, nhà thơ đang nói với chính mình hay là kêu gọi sự thức tỉnh niềm tự hào với lịch sử bốn ngàn năm dân tộc.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này.
(Chạy giặc, Nguyễn Đình Chiểu)
Trong thơ cụ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện bức tranh hiện thực quê hương ngập tràn bóng giặc nhưng triều đình vẫn giữ thái độ dửng dưng. Đằng sau câu chữ ấy là tâm trạng phẫn uất cùng niềm chờ mong sẽ có nhân tài dẹp loạn để cứu nước. Thơ Tú Xương tuy không kêu gọi mạnh bạo và quyết liệt như cụ Nguyễn Đình Chiểu nhưng ông thẳng tay chỉ ra, lên án vẻ làm ngơ của những kẻ sĩ yêu nước nay đã quay đầu, dù mắt thấy tai nghe cũng để lũ giặc làm tan nát nước nhà.

Vịnh khoa thi hương cùng những nét đặc sắc về nghệ thuật

Chỉ vài nét phác hoạ sâu sắc, Tú Xương đã dựng lại chính xác, sinh động khung cảnh hỗn độn của khoa thi Hương. Trường thi đầy rẫy những cảnh chướng tai gai mắt, tất cả được miêu tả bằng giọng thơ hài hước, châm biếm sâu cay. Bài thơ của Trần Tế Xương thể hiện sắc nét hệ thống hình tượng tác giả trong tư cách cảm hứng sáng tác. Bình về thi phẩm Vịnh khoa thi hương, nhà thơ Nguyễn Tuân có viết: “Thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh giá được bằng khí giới thì ít nhất cũng phải lấy bút ràm vẫy cái sĩ khí vào những nghè, những cử bịt mũi xu thời! Vẫy vào và than một đôi lời.” Vừa bày tỏ nỗi niềm chủ thể vừa là sự miêu tả về một kiểu nhân vật trữ tình khách thể. Tú Xương đóng vai chứng nhân, đồng thời cũng là sĩ tử và “nhân tài” đất nước.

Thủ pháp châm biếm, “hí hoạ” trong thơ trào phúng của Trần Tế Xương đã làm nên mối quan hệ hai chiều là trào phúng gắn quyện với trữ tình. Ông vẽ nên hoạt cảnh thi cử bi hài và lên tiếng thức tỉnh lương tâm người trí thức trước thực trạng xã hội đương thời. Với tiếng cười trào lộng sâu sắc, Vịnh khoa thi hương đã đi sâu vào việc khai thác, biếm hoạ mọi nhân vật, từ vẻ ngoài đến vai trò, vị thế và sự khái quát được bản chất xã hội qua thực trạng thi cử.

Thi phẩm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, dù tuân theo luật lệ hà khắc nhưng lại mở ra ý nghĩ khôn cùng. Ngôn từ thơ Tú Xương có khả năng biểu hiện sâu sắc cực độ trữ tình, đó cũng là sự phong phú cùng huyền diệu của thế giới nghệ thuật. Với Vịnh khoa thi hương cùng nỗi đau đằng sau tiếng cười xót xa ấy, Tú Xương đích thực là người nghệ sĩ tiêu biểu khép lại thế kỉ XIX văn học trung đại. Trái tim và linh hồn cùng tài năng khiến thơ văn của ông sống mãi trong tâm hồn bạn đọc dù qua bao thế hệ.

tửu tận tình do tại
25.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời