寄臺中寮友詩

臺端一去便天涯,
回首傷心事事違。
九陌塵埃人易老,
五湖風雨客思歸。
儒風不振回無力,
國勢如懸去亦非。
今古興亡真可鑑,
諸公何忍諫書稀。

 

Ký đài trung liêu hữu thi

Đài đoan nhất khứ tiện thiên nhai,
Hồi thủ thương tâm sự sự vi.
Cửu mạch trần ai nhân dị lão,
Ngũ hồ phong vũ khách tư quy.
Nho phong bất chấn hồi vô lực,
Quốc thế như huyền khứ diệc phi.
Kim cổ hưng vong chân khả giám,
Chư công hà nhẫn gián thư hy.

 

Dịch nghĩa

Kẻ làm việc ở đài Ngự sử một khi ra đi là tận chân trời,
Ngoảnh đầu lại, đau lòng thấy việc gì cũng trái mắt.
Bụi bặm đường kinh thành làm cho người dễ già,
Mưa gió chốn Ngũ hồ xui khách muốn về ẩn.
Nho phong không xốc nổi, trở lại cũng bất lực,
Thế nước như treo, ra đi cũng lá sai.
Sự hưng phế xưa nay thật có thể làm gương,
Các ông sao nỡ ít đưa thư can ngăn đến vậy!


Bài thơ này được Hồ Nguyên Trừng chép trong Nam Ông mộng lục với lời dẫn như sau: “Vào khoảng năm Chí Chính, Trần Nguyên Đán ở Giao Chỉ là người thuộc tôn thất nhà Trần ra làm quan với Dụ Vương, giữ chức Ngự sử đại phu. Vua không siêng chăm việc nước, bọn quyền thần làm nhiều điều phi pháp, Nguyên Đán luôn can ngăn, nhưng không chịu tiếp thu. Đến khi Dụ Vương mất, cháu là Hôn Đức kế lập, thời sự lại càng tồi tệ. Nguyên Đán dâng thư lên, nhưng trên không trả lời, bèn thôi quan mà về. Có gửi cho bạn bè cùng làm quan trong đài Ngự sự bài rằng: [...] Về sau, khi cung đình dấy nạn, Nguyên Đán chạy theo Nghệ Vương. Vua lên ngôi, lấy Nguyên Đán làm Tư đồ Bình chương sự. Ở ngôi Tể tướng nhiều năm rồi mất. Ông là người thông hiểu lịch pháp, từng làm ra sách Bách thế thông kỷ, trên khảo từ năm Giáp Thìn thời Nghiêu, dưới tới Tống, Nguyên; nhật thực nguyệt thực, triền độ các vì sao đều phù hợp với sách cổ; phụng đạo tinh luyện, cầu mưa có ứng nghiệm. Tự lấy hiệu là Băng Hồ Tử.”

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đào Văn Khởi

Rời đài ngữ sử đến chân trời.
Ngoảnh lại lòng đau việc trái sai.
Chốn bụi kinh thành mau tuổi lão,
Ngũ hồ mưa gió khách xa khơi
Nho phong chuyện cũ, người khong sức
Thế nước mơ hồ những muốn thôi.
Hưng vong kim cổ gương soi đó
Sao chẳng dâng thư đến cõi trời?

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Rời đài ngự sử tới chân trời,
Ngoảnh lại lòng đau việc trái đời.
Bụi bặm kinh thành người dễ lão,
Ngũ hồ mưa gió khách tìm ngơi.
Nho phong khó xốc đành không lực,
Thế nước treo mành sái lúc rời.
Gương ấy hưng suy kim cổ chiếu,
Không can sao nỡ bậc “con trời”!

Chưa có đánh giá nào
Trả lời