Thênh thênh trời đất một bầu,
Cái trò thiên diễn năm châu thế nào?
Khi chẩm thạch khi binh đao,
Xoay quanh trong giấc chiêm bao khác gì.
Cứ điều triết lý mà suy,
Trầm phù ruổi máy, thịnh suy nối vòng.
Nỗi riêng lòng lại bận lòng,
Dường ngao ngán lẽ, dường nông nổi tình.
Sa chân chi kiếp phù sinh,
Biết là ai có như mình mà hay.
Trải xem lịch sử xưa nay,
Dâu cồn bể vực đổi thay lần lần.
Khói tan trong cuộc hồng trần,
Bốn phương mù mịt trăm dân thiệt thòi.
Nhớ xưa Trác Lộc khơi ngòi,
Chăn tên gối đạn dễ coi là thường.
Xiết bao kìa chốn sa trường,
Xuân Thu - Chiến Quốc tấm gương chưa mòn.
Não nùng Hán Sở lại dồn,
Máu sông nước chảy, xương cồn hoa phơi.
Nối sau Tam Quốc mấy đời,
Khi châu xẻ nửa, khi trời chia ba.
Lại hồi Âu chiến mới qua,
Các vai thảm kịch xảy ra đùng đùng.
Nào đoàn phi đội trên không,
Nào đường trái phá, nào sông điện ngầm.
Hiu hiu gió cuốn cát lầm,
Chiếc cân sinh tử biết cầm tay ai.
Lại về cõi Việt mà coi,
Nào Đinh, Lê, Lý, đổi dời còn đâu.
Bồi hồi tấc dạ bấy lâu,
Nghĩ nguồn cơn thiết, mà đau đớn thầm.
Ông xanh ác cảm chi ngầm,
Để người nắng dãi sương dầm bơ vơ.
Quản bao tháng đợi năm chờ,
Tìm kho vô tận thác nhờ nước non.
Kìa ai yêu chiếc trăng tròn,
Mai dâng cốc rượu tuyết dồn vần thơ.
Trăng sao trăng cũng hững hờ,
Qua đêm mười sáu lại mờ gương trinh.
Kìa ai yêu gió cuốn ghềnh,
Phong lưu nợ cũ, phong tình duyên xưa.
Gió sao gió cũng thờ ơ,
Qua cơn thế cố lại sơ sớt già.
Kìa ai yêu đoá danh hoa,
Sáng đưa hồ điệp, tối khà Trang sinh.
Hoa sao hoa cũng đa tình,
Qua thì còn đoái tan tành ra sao.
Kìa ai yêu giọt mưa dào,
Giọi rơi xuống giếng, giọt vào vườn xuân.
Mưa sao mưa cũng lữa lần,
Qua đình Hỉ Vũ ác vần vẻ suy.
Than ôi! Tạo vật đa kỳ,
Bày ra thế đó, buộc chi thế này.
Tiêu dao còn chút mây bay,
Ấy người kim cổ chửa tay nào rành,
Kể u thanh cũng u thanh,
Kể cao cao tận trời xanh chín lần.
Cho chăng trời để riêng phần,
Lửng lơ mới hiệu “Nhàn Vân Đình” này.
Rằng hay thế mới là hay!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]