Thơ » Việt Nam » Cận đại » Trương Vĩnh Ký
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/08/2014 14:11
Non vời vợi, nước mênh mênh.
Non nước dầu ta dưỡng tánh bình.
Sướng mắt trăm trùng biếc biếc;
Trái tai một dải xanh xanh.
Chẳng có tiên cũng có rồng, khí thiêng đất cấu;
Đã không quê lại không vực, chốn lạ trời dành.
Hi Di lánh đầu đuôi chiếc lá;
Gia Cát nằm để luống lều tranh.
Đây cũng là động;
Đó cũng là nguyên.
Đời sao vắng chân nhân;
Đời sao không xử sĩ?
Kìa thời ấy non;
Nọ thời ấy nước.
Ai đà thôi tể tướng;
Ai đà cất tiên sinh?
Chia tục lựa khăn ba triệu;
Ngăn trần miễn áo hai manh.
Sớm bãi hạc, tối đồi le, thú ngư ông mặc thích;
Rầy đường chim, mai dấu thỏ, nghiệp tiều lão ai tranh?
Gió nặng, buồm bay phới phới;
Trăng dày, thuyền nhẹ thênh thênh.
Hễ đâu tới là nhà, phải mượn ai hỏi bến;
Hễ đâu nhàn ấy thú, lọ chỉ chỗ tìm gành.
Ướm hỏi ngâm câu thoát lý;
Vỗ tay ca nữ trạc anh.
Gạo Bành trạch dễ bao lăm, có chăng chúa bẻ lưng Đào lệnh;
Ngôi Gián nhị đã mấy lần, hoạ là trời cải chí Nghiêm khanh.
Nết niềm thà cùng rừng cỏ;
Xôn xao không chịu sỏi sành.
Cuộc Hán Sở liếc con ngươi, chi đến nỗi rìu ta cán mục;
Truyện Tấn Tần nhăn cái lưỡi, đâu để cho thuyền tớ chèo quanh.
Vẽ chân rắn khéo nhưng mà vụng;
Vịn tuổi hùm dữ ắt chẳng lành.
Ghi khoán thiết, chép thư son, chớ nói ngàn năm sự nghiệp;
Chực cửa vàng, chầu bệ ngọc, nực cười hai chữ công danh.
Nơi thành thị có vinh âu có nhục;
Chốn lâm tuyền càng tục lại càng thanh.
Đất cấp của tự nhiên, xã xượi cá tươi gòi tốt;
Trời ban kho vô tận, ê hề gió mát trăng thanh.
Thưởng cảnh tả thơ tựa gấm;
Đánh sầu điểm rượu làm tranh.
Say lại tỉnh, tỉnh lại say, một ngày cũng thần tiên vô sự;
Uống nhẫn ăn, ăn nhẫn uống, muôn năm ơn thiên tử thái bình.