Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Tạo ngày 21/07/2008 10:49 bởi
Vanachi Trương Quốc Dụng 張國用 (1797–1864) hồi nhỏ tên là Trương Khánh 張慶, tự Dĩ Hành, là người làng Phong Phú, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (năm 1829), làm quan trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ngót 30 năm, trải nhiều thăng giáng, từ tri phủ Tân Bình, hình bộ lang trung, án sát Quảng Ngãi, Hưng Yên, tả thị lang bộ Lễ, Bộ Lại, Bộ Công, Bộ Hình, Tham tri các bộ: Bộ Công, Bộ Binh, Bộ Hộ, chủ khảo một số khoa thi, thượng thư bộ Hình, tổng tài Quốc sử quán chuyên quản Khâm thiên giám, thống đốc Hải An quân vụ đại thần, Hiệp biện đại học sĩ,...
Ông là nhà sử học lớn đương thời khi cùng nhóm làm sử biên soạn Khâm định Việt sử thông giám cương mục gồm 52 quyển, chép lịch sử nước ta từ đời Hùng Vương đến năm Chiêu Thống thứ 3 (1789), cùng với bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và các sử gia triều Lê là hai bộ quốc sử lớn nhất được khắc in toàn bộ trong các triều đại phong kiến Việt Nam.
Ông còn là nhà thiên văn học uyên bác, người thầy đào tạo ra những nhà thiên văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, người có công chấn hưng khoa làm lịch Việt Nam. Sách Đại Nam thực chính biên liệt truyện chép về ông: “Quốc Dụng là người trầm tĩnh, dẫu làm quan chưa từng rời quyển sách, người đều duy tôn là học rộng. Tương truyền là nhà làm lịch bị thất truyền. Quốc Dụng quản lĩnh Khâm thiên giám hằng ngày truyền dạy cho mới nối được nghề học ấy”. Sách Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn viết về ông: “Tính tính tình điềm tĩnh, học rộng lại đọc nhiều sách, ngoài văn chương cử nghiệp, sở học của ông cũng đóng góp được nhiều cho văn hoá nước nhà đương thời. Ví như lối làm lịch của nước ta, các đời trước khi theo lịch Đại Thống ở Trung Hoa nhà Thanh mà làm rồi ban ra cho dân gian hơn 300 năm mà không hề sửa chữa, về sau loạn lạch bị thất truyền nên lắm chỗ sai lầm. Khi ông trông coi Khâm thiến giám mới tham cứu Lịch đại tượng khảo đời Khang Hy nhà Thanh và các sách làm lịch của phương Tây, từ đó làm lịch rất tinh tường. Hồi ấy, các giáo sĩ Tây phương khi so sánh nhật - nguyệt thực của lịch ta làm ra thấy chính xác hơn lịch của Trung Hoa.” Sách Đại học sĩ Trương Quốc Dụng của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân viết: “Với tư cách là một nhà thiên văn học có công truyền dạy, chấn hưng khoa làm lịch Việt Nam thời Nguyễn, tên ông Trương Quốc Dụng còn đáng được ghi vào danh sách các nhà thiên văn học Việt Nam, và cũng có thể tôn vinh ông là một trong các vị hậu tổ của khoa làm lịch Việt Nam.”
Năm 1833, Trương Quốc Dụng được cử làm tư vụ, dẹp xong vụ nổi dậy của Lê Văn Khôi. Năm 1834 đánh đuổi quân Xiêm can thiệp tới sát biên giới Xiêm. Tháng 1 năm 1862, với chức Tổng thống quân vụ, Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Thanh - Nghệ ra Bắc tiêu diệt bè đảng Tạ Văn Phụng làm tay sai cho Thực dân Pháp đã đánh chiếm tỉnh thành Hải Dương, cát cứ một vùng rộng lớn các tỉnh Đông Bắc (Hưng Yên, Nam Định, Quảng Yên).Đến tháng 12 năm 1862, Trương Quốc Dụng chiếm lại thành Hải Dương, đánh đuổi quân giặc thua chạy tan tác từ Nam Sách, Kinh Môn ra tận biển Quảng Yên. Tháng 6 âm lịch năm 1864, ông giữ chức Hiệp thống, truy quyết giặc ở biển Quảng Yên, chẳng may trong một trận đánh ác liệt, ông đã tử trận cùng tuỳ tướng là Văn Đức Giai.
Sau khi mất, để ghi công lao của ông, triều đình đã truy tặng Đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sĩ. Đền thờ và lăng mộ Trương Quốc Dụng tại quê nhà đã được công nhận di tích lịch sử - văn hoá năm 2000. Nơi ông hi sinh, nhân dân xã Tiền An huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh đã lập đền thờ ông cùng với phó tướng là tiến sĩ Văn Đức Giai (người Quỳnh Đôi - Nghệ An) từ năm 1877. Đền thờ đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá năm 2000.
Tác phẩm:
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục
- Đại Nam thực lục chính biên (tham gia biên soạn đệ nhị kỷ)
- Công hạ ký văn
- Văn quy tân Thể
- Trương Nhu Trung thi tập
- Thoái thực ký văn
- Chiếu biểu luận thức
Trương Quốc Dụng 張國用 (1797–1864) hồi nhỏ tên là Trương Khánh 張慶, tự Dĩ Hành, là người làng Phong Phú, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (năm 1829), làm quan trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ngót 30 năm, trải nhiều thăng giáng, từ tri phủ Tân Bình, hình bộ lang trung, án sát Quảng Ngãi, Hưng Yên, tả thị lang bộ Lễ, Bộ Lại, Bộ Công, Bộ Hình, Tham tri các bộ: Bộ Công, Bộ Binh, Bộ Hộ, chủ khảo một số khoa thi, thượng thư bộ Hình, tổng tài Quốc sử quán chuyên quản Khâm thiên giám, thống đốc Hải An quân vụ đại thần, Hiệp biện đại học sĩ,...
Ông là nhà sử học lớn đương thời khi cùng nhóm làm sử biên soạn Khâm định Việt sử thông giám cương mục gồm 52 quyển, chép lịch sử nước ta từ đời Hùng Vương đến năm Chiêu Thống thứ 3 (1789),…