Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Tạo ngày 14/11/2007 15:02 bởi
Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 14/11/2007 15:06 bởi
Vanachi Trương Đăng Quế 張登桂 (1793-1865) tự Diên Phương 延芳, hiệu Đoan Trai 端齋 hay Quảng Khê tẩu 廣溪叟 (ông già Quảng Khê), sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793), quê làng Mỹ Khê Tây, xã Sơn Mỹ (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi), quan Đại thần phụ chính nhà Nguyễn, phụng sự trong bốn triều đầu tiên của nhà Nguyễn là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Trương Đăng Quế còn là một nhà văn và nhà giáo. Ông từng là thầy học của vua Thiệu Trị.
Năm 1819, ông đỗ kỳ thi hương. Năm 1820, bắt đầu ra làm quan. Năm 1836, làm Binh bộ Thượng thư, Cơ mật đại thần, dẫn đầu đoàn Kinh lược sáu tỉnh Nam Kỳ nhằm lập sổ địa bạ, quản lý đất đai, ổn định công việc hành chính các tỉnh Nam kỳ. Đầu năm 1837, ông được điều ra Thanh Hoá, làm Kinh lược sứ, cùng với Doãn Uẩn và Nguyễn Đăng Giai, dẹp loạn đảng Lê Duy Hiển chống triều đình nhà Nguyễn, ổn định tình hình hành chính ở Thanh Hoá. Ông là cha của quan đại thần dưới triều Nguyễn là Trương Quang Đản.
Tác phẩm của ông hiện còn lưu lại có:
- Thiệu Trị văn quy (quy tắc làm văn đời Thiệu Trị)
- Đại Nam liệt truyện (phần từ các chúa Nguyễn đến đời Thiệu Trị ông làm Tổng tài)
- Đại Nam thực lục tiền biên
- Trương Quảng Khê tiên sinh tập (còn được gọi là Học văn dư tập có nghĩa là dùng cái sức dư để học văn)
Đánh giá thơ văn ông trong Đại Nam liệt truyện có ghi: “Ông bình sinh trước tác thơ văn, người ta thường suy tôn là bình hoà điển nhã, có tập thi văn Quảng Khê lưu hành ở đời”.
Trương Đăng Quế 張登桂 (1793-1865) tự Diên Phương 延芳, hiệu Đoan Trai 端齋 hay Quảng Khê tẩu 廣溪叟 (ông già Quảng Khê), sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793), quê làng Mỹ Khê Tây, xã Sơn Mỹ (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi), quan Đại thần phụ chính nhà Nguyễn, phụng sự trong bốn triều đầu tiên của nhà Nguyễn là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Trương Đăng Quế còn là một nhà văn và nhà giáo. Ông từng là thầy học của vua Thiệu Trị.
Năm 1819, ông đỗ kỳ thi hương. Năm 1820, bắt đầu ra làm quan. Năm 1836, làm Binh bộ Thượng thư, Cơ mật đại thần, dẫn đầu đoàn Kinh lược sáu tỉnh Nam Kỳ nhằm lập sổ địa bạ, quản lý đất đai, ổn định công việc hành chính các tỉnh Nam kỳ. Đầu năm 1837, ông được điều ra Thanh Hoá, làm Kinh lược sứ, cùng với Doãn Uẩn và Nguyễn Đăng Giai, dẹp loạn…